Tình hình tai nạn lao động năm 2009

LBBT: Caritas Việt Nam giới thiệu với độc giả bài “Tình hình tai nạn lao động năm 2009” đăng trên trang web Chính phủ về An toàn Lao động, ra ngày thứ Hai, 01-03-2010, để giúp các bạn có một cái nhìn chung về tình hình an toàn lao động ở Việt Nam.

Tình hình tai nạn lao động năm 2009

 

LBBT: Caritas Việt Nam giới thiệu với độc giả bài “Tình hình tai nạn lao động năm 2009” đăng trên trang web Chính phủ về An toàn Lao động, ra ngày thứ Hai, 01-03-2010, để giúp các bạn có một cái nhìn chung về tình hình an toàn lao động ở Việt Nam.

 

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thông báo đến các ngành, các địa phương tình hình tai nạn lao động trong năm 2009 và một số giải pháp chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa sự cố và tai nạn lao động trong năm 2010 như sau:

 

A. TÌNH HÌNH CHUNG

 

1. Số vụ tai nạn lao động (TNLĐ)

Theo báo cáo của 63 Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, trong năm 2009 đã xảy ra 6.250 vụ TNLĐ làm 6.421 người bị nạn, trong đó có 507 vụ TNLĐ chết người làm 550 người chết, 1.221 người bị thương nặng, có 88 vụ có từ 2 người bị nạn trở lên. Một số vụ tai nạn nghiêm trọng xảy ra trong năm 2009: Vụ sạt lở núi đá bên ta – luy dương của đoạn đường đang thi công tại km 112 + 900 tỉnh lộ 105 thuộc huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La làm 4 công nhân bị chết ngày 06/01/2009; Vụ điện giật làm 3 người chết và 3 người bị thương tại phường Ba Đình, thành phố Thanh Hóa ngày 30/10/2009; Nhiều vụ tai nạn liên tiếp xảy ra trong quá trình xây dựng tòa nhà Keangnam (Hà Nội) làm 4 người chết và 3 người bị thương vào các ngày 21, 22, 27 tháng 7 năm 2009; Vụ TNLĐ trong khi khai thác đá làm 2 người chết tại núi Ràn, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa ngày 17/08/2009.

 

2. Tình hình tai nạn lao động ở các địa phương

Nam và Sơn La là hai địa phương có số vụ TNLĐ nghiêm trọng tăng cao so với năm 2008. Các tỉnh Bình Phước, Hậu Giang, Cao Bằng, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Ninh Thuận báo cáo không xảy ra vụ TNLĐ chết người nào trong năm 2009.

Trong năm 2009, các địa phương sau để xảy ra nhiều vụ TNLĐ chết người (chiếm 52,54% tổng số người chết vì TNLĐ trên toàn quốc).

 

 

B. PHÂN TÍCH CÁC VỤ TAI NẠN LAO ĐỘNG


Công tác điều tra các vụ TNLĐ hiện nay vẫn còn rất chậm. Theo báo cáo của 63 Sở Lao động – Thương binh và Xã hội thì năm 2009 toàn quốc xảy ra 507 vụ TNLĐ chết người, nhưng đến tháng 02 năm 2010, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội mới nhận được 135 biên bản điều tra. Phân tích từ 135 biên bản điều tra TNLĐ, có một số đánh giá như sau:

 

STT

Địa phương

Số vụ TNLĐ

Số vụ TNLĐ chết người

Số người bị nạn

Số người chết

Số người bị thương nặng

1

Tp. Hồ Chí

1319

102

1330

103

113

 

Đồng Nai

1525

30

1542

30

184

3

Quảng Ninh

370

27

382

30

225

4

Hà Nội

111

23

113

26

81

5

Bình Dương

638

23

648

24

29

6

Hà Nam

30

15

46

19

16

7

Long An

99

14

99

14

19

8

Hải Phòng

84

14

87

14

20

9

Hải Dương

60

13

64

13

16

10

Sơn  La

20

11

31

16

15

1. Tình hình tai nạn lao động chết người theo loại hình cơ sở sản xuất

– Loại hình Công ty cổ phần vốn Nhà nước (vốn Nhà nước > 51%) chiếm 10% tổng số vụ tai nạn và 13% tổng số người chết;
– Loại hình Công ty TNHH, Công ty cổ phần có nguồn vốn khác trong nước chiếm 61% tổng số vụ tai nạn và 61% tổng số người chết;
– Loại hình Doanh nghiệp nhà nước chiếm 12% tổng số vụ tai nạn và 11% tổng số người chết;
– Loại hình Doanh nghiệp tư nhân chiếm 9% tổng số vụ tai nạn và 8% tổng số người chết;

 

2. Những lĩnh vực sản xuất xảy ra nhiều tai nạn lao động chết người

– Lĩnh vực xây lắp các công trình dân dụng, công nghiệp và công trình giao thông chiếm 51,11% trên tổng số vụ TNLĐ chết người;
– Lĩnh vực khai thác than, khai thác khoáng sản chiếm 15,53% trên tổng số vụ TNLĐ chết người;

– Lĩnh vực cơ khí chế tạo chiếm 5,93% trên tổng số vụ TNLĐ chết người.
– Lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng chiếm 2,96% trên tổng số vụ TNLĐ chết người;
– Lĩnh vực Giao thông vận tải chiếm 2,96% trên tổng số vụ TNLĐ chết người;
– Lĩnh vực Sản xuất hàng tiêu dùng công nghịêp nhẹ chiếm 2,96% trên tổng số vụ TNLĐ chết người;

– Lĩnh vực Luyện kim chiếm 2,22% trên tổng số vụ TNLĐ chết người;
– Lĩnh vực Xây lắp điện chiếm 2,22% trên tổng số vụ TNLĐ chết người.

 

3. Các loại yếu tố, thiết bị gây nhiều tai nạn lao động chết người
– Liên quan đến giàn giáo, sàn thao tác chiếm 24,44% tổng số vụ và 25,35% tổng số người chết;

– Liên quan đến các loại máy bơm điện chiếm 8,15% tổng số vụ và 7,75% tổng số người chết.

– Liên quan đến máy trục, cầu trục, cổng trục chiếm 5,19% tổng số vụ và 4,93% tổng số người chết;

– Liên quan đến máy hàn điện chiếm 5,19% tổng số vụ và 4,93% tổng số người chết;

– Liên quan đến các loại máy trộn nguyên vật liệu chiếm 5,19% tổng số vụ và 4,93% tổng số người chết.

 

4. Các yếu tố chấn thương chủ yếu làm chết người nhiều nhất
– Điện giật chiếm 31% tổng số vụ tai nạn và 30% tổng số người chết;
– Ngã từ trên cao chiếm 32% tổng số vụ và 32% tổng số người chết;
– Máy, thiết bị cán, kẹp, cuốn chiếm 6% tổng số vụ và 6% tổng số người chết;
– Trong lĩnh vực khai thác đá và khai thác khoáng sản theo con số báo cáo của các địa phương trong năm 2009 chiếm 8% tổng số vụ TNLĐ chết người.

 

5. Các nguyên nhân chủ yếu để xảy ra tai nạn lao động.
– Người sử dụng lao động tổ chức lao động chưa tốt chiếm 14,07% tổng số vụ, do điều kiện làm việc không tốt chiếm 0,74% tổng số vụ;
– Người sử dụng lao động không xây dựng quy trình, biện pháp làm việc an toàn chiếm 14,81% tổng số vụ;

– Chưa huấn luyện an toàn lao động cho người lao động chiếm 11,85% tổng số vụ; không có phương tiện bảo vệ cá nhân chiếm 5,19% tổng số vụ;
– Thiết bị không đảm bảo an toàn chiếm 26,67% tổng số vụ; không có thiết bị an toàn chiếm 2,96% tổng số vụ;

– Người lao động vi phạm quy trình quy phạm an toàn lao động chiếm 14,07% tổng số vụ;

– Người lao động không sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân chiếm 4,44% tổng số vụ.


Còn lại 5,2% là những vụ TNLĐ xảy ra không xác định được nguyên nhân hoặc do nguyên nhân khách quan khó tránh.

 

C. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. So với năm 2008: Năm 2009 số vụ TNLĐ tăng 414 vụ (tăng 7,09%), tổng số nạn nhân tăng 374 người (tăng 6,18%), số vụ TNLĐ chết người giảm 01 vụ và số người chết giảm 23 người (giảm 4,01%, năm 2008 xảy ra 508 vụ TNLĐ chết người làm 573 người chết);

 

2. Tình hình điều tra tai nạn lao động

Nhìn chung các vụ TNLĐ đã được điều tra đúng quy định tại Thông tư liên tịch số 14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN ngày 08/3/2005 của Liên tịch Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội – Bộ Y tế – Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tuy nhiên nhiều địa phương còn chậm gửi biên bản điều tra về Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, số biên bản điều tra TNLĐ nhận được chỉ chiếm 26,42% tổng số vụ TNLĐ chết người và đang có chiều hướng giảm theo từng năm (năm 2007 đạt 47,52%, năm 2008 đạt 35,62%). Công tác điều tra, báo cáo các vụ TNLĐ chết người chưa cao; theo thống kê năm 2009 cho thấy tỷ lệ gửi biên bản TNLĐ chết người của các địa phương xảy ra nhiều TNLĐ như sau: TP. Hồ Chí Minh 69/102 vụ, Quảng Ninh 15/27 vụ, Đồng Nai 3/30 vụ, Bình Dương 0/23 vụ, Hà Nội 11/23 vụ, Long An 7/14 vụ, Hải Phòng 0/14 vụ, Hải Dương 0/13 vụ, Hà Nam 0/15 vụ, Sơn La 0/11 vụ. Sự phối hợp chưa tốt trong việc giải quyết các vụ TNLĐ chết người theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2007/TTLT/BLĐTBXH-BCA-VKSNDTC ngày 12/01/2007 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Công an và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, do vậy tiến độ điều tra các vụ TNLĐ chết người vẫn còn rất chậm so với quy định. Còn nhiều vụ tai nạn xảy ra trong khai thác khoáng sản của tư nhân, trong các công trình xây dựng nhà ở của dân chưa được tiến hành điều tra, thống kê và báo cáo. Để công tác điều tra, gửi biên bản điều tra TNLĐ chết người về Bộ LĐTBXH để báo cáo các được tốt hơn nhằm giúp cho việc phân tích các vụ TNLĐ nghiêm trọng chính xác và có hiệu quả, đề nghị Sở LĐTBXH các địa phương chỉ đạo việc điều tra các vụ TNLĐ chết người kịp thời, gửi biên bản điều tra TNLĐ chết người về Bộ LĐTBXH. Những vụ TNLĐ mà quá trình điều tra cần kéo dài đề nghị các Sở LĐTBXH gửi báo cáo nhanh về Bộ LĐTBXH.


Trong tổng số 507 vụ TNLĐ xảy ra trong năm 2009, có 2 vụ được chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát để đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự và khởi tố các cá nhân có liên quan đến vụ TNLĐ.

 

3. Chất lượng báo cáo tai nạn lao động năm 2009

Nhiều địa phương đã thực hiện tốt việc báo cáo tình hình TNLĐ theo đúng mẫu và thời gian quy định tại Thông tư liên tịch số 14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN ngày 08/3/2005 của Liên tịch Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội – Bộ Y tế – Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn một số địa phương báo cáo không đúng mẫu, báo cáo số liệu không khớp giữa các cột mục hoặc chỉ báo cáo tổng số mà không phân tích theo các yếu tố theo biểu mẫu quy định. Nhiều địa phương không có “Báo cáo TNLĐ theo loại hình doanh nghiệp, nghề nghiệp” hoặc số liệu báo cáo không đầy đủ, không phù hợp (chỉ 50% báo cáo TNLĐ theo loại hình doanh nghiệp của các địa phương gửi về có thể thống kê phân tích). Theo thống kê của 36/63 tỉnh có báo cáo theo loại hình doanh nghiệp đầy đủ số liệu thì tỷ lệ báo cáo của các doanh nghiệp về Sở Lao động–Thương binh và Xã hội địa phương vẫn rất thấp, chỉ có khoảng 2,42% số doanh nghiệp báo cáo (năm 2008 là 6,34%), do vậy đã gây khó khăn trong việc tổng hợp, đánh giá tình hình TNLĐ toàn quốc. Các Sở Lao động–Thương binh và Xã hội địa phương gửi báo cáo về Bộ cũng rất chậm.


Để khắc phục tình trạng báo cáo của các doanh nghiệp nêu trên, đề nghị Thanh tra Sở Lao động–Thương binh và Xã hội các địa phương kiên quyết xử phạt các doanh nghiệp không báo cáo định kỳ về TNLĐ theo quy định tại Khoản 2, Điều 25 Nghị định số 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính phủ.

 

4. Thiệt hại về vật chất

Theo số liệu báo cáo của các địa phương, thiệt hại về vật chất do TNLĐ xảy ra trong năm 2009 (chi phí tiền thuốc men, mai táng, tiền bồi thường cho gia đình người chết và những người bị thương,…) là 39,388 tỷ đồng, thiệt hại về tài sản là 2,7 tỷ đồng. Tổng số ngày nghỉ do TNLĐ lên đến 457.817 ngày.

 

D. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN THỰC HIỆN NĂM 2010


Căn cứ vào tình hình và nguyên nhân xảy ra TNLĐ trong năm 2009, để chủ động phòng ngừa và hạn chế TNLĐ trong thời gian tới, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đề nghị các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau đây:

1. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước về an toàn, vệ sinh lao động ở tất cả các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế. Cần tập trung vào các lĩnh vực xây dựng, nhất là tại các công trình xây dựng nhỏ, công trình trọng điểm sử dụng nhiều lao động thời vụ; lắp đặt, sửa chữa điện; khai thác khoáng sản và khai thác đá; sử dụng các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động; các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy trình sản xuất lạc hậu; sử dụng các hoá chất độc hại, ảnh hưởng môi trường nhưng thiếu ý thức phòng ngừa TNLĐ. Chú ý thanh tra, kiểm tra chuyên đề về công tác thống kê, báo cáo TNLĐ. Kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với các hành vi vi phạm luật pháp lao động theo quy định tại Nghị định số 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 của Chính phủ;

2. Các Bộ, ngành, tập đoàn, tổng công ty tăng cường kiểm tra và chỉ đạo các đơn vị thuộc quyền quản lý của mình thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động và quy định về bảo hộ lao động. Tổ chức huấn luyện về an toàn lao động cho người sử dụng lao động theo quy định tại Thông tư số 37/2005/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2005 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội. Xác định rõ các nguyên nhân gây ra TNLĐ để phổ biến rút kinh nghiệm trong toàn ngành, tập đoàn, tổng công ty, đồng thời đề ra các biện pháp cần thiết để ngăn chặn và đẩy lùi TNLĐ. Kiểm điểm, xử lý nghiêm khắc các đơn vị, cá nhân để xảy ra TNLĐ;

3. Người sử dụng lao động phải thường xuyên đánh giá nguy cơ gây TNLĐ, bệnh nghề nghiệp liên quan đến môi trường làm việc, công cụ máy móc, thiết bị, các chất và tác nhân hóa học, vật lý và sinh học để đưa ra các biện pháp phòng ngừa, loại bỏ các nguy cơ tại nơi làm việc, cải thiện điều kiện làm việc để đảm bảo cho người lao động được làm việc trong môi trường an toàn. Phải coi việc đánh giá nguy cơ gây TNLĐ, bệnh nghề nghiệp là công việc không thể tách rời trong các hoạt động kinh doanh, sản xuất của mình. Xây dựng và rà soát các quy trình, biện pháp làm việc an toàn, vệ sinh lao động theo hướng dẫn tại các Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật an toàn lao động và hướng dẫn cho người lao động trước khi làm việc. Tổ chức huấn luyện về an toàn, vệ sinh lao động đầy đủ cho người lao động theo quy định và tuyên truyền, giáo dục cho người lao động tự giác chấp hành các quy định về an toàn, vệ sinh lao động, tạo điều kiện cho người lao động được tham gia vào tất cả các giải pháp cải thiện điều kiện lao động. Đặc biệt chú ý đối với những người lao động làm các công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại hoặc tiếp xúc với những đối tượng có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động;

4. Sở Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền để tiến hành điều tra kịp thời, chính xác các nguyên nhân gây ra TNLĐ chết người trong các thành phần kinh tế. Xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm các quy định về an toàn, vệ sinh lao động và kiên quyết đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự các cá nhân liên quan nếu có những vi phạm pháp luật lao động để xảy ra TNLĐ chết người nghiêm trọng;

5. Các cơ quan truyền thông tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động nhằm nâng cao trách nhiệm đối với các đơn vị, cơ sở sản xuất kinh doanh và người lao động để mọi người đều có ý thức cảnh giác và phòng ngừa TNLĐ./.