24/11/2024

Gia đình Việt Nam xưa và nay

Giáo Hội toàn cầu cũng như Giáo hội Việt Nam tập trung sự chú ý và dồn nhiều nỗ lực cho việc thánh hoá gia đình, đặc biệt là trong năm nay. Hội nghịQuốc tế về Gia đình ở Manila (Philippines) trong tháng 1-2003, thư mục vụ về đề tài “Thánh hoá Gia đình” của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng như rất nhiều thư mục vụ của các giám mục giáo phận đều nói lên sự quan tâm đúng đắn này.

GIA ĐÌNH VIỆT NAM XƯA VÀ NAY

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

Tổng Thư ký UBBAXH-Caritas Việt Nam

 

Giáo Hội toàn cầu cũng như Giáo hội Việt Nam tập trung sự chú ý và dồn nhiều nỗ lực cho việc thánh hoá gia đình, đặc biệt là trong năm nay. Hội nghịQuốc tế về Gia đình ở Manila (Philippines) trong tháng 1-2003, thư mục vụ về đề tài “Thánh hoá Gia đình” của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng như rất nhiều thư mục vụ của các giám mục giáo phận đều nói lên sự quan tâm đúng đắn này. Đồng cảm với Giáo hội, chúng tôi xin giới thiệu với độc giả một cái nhìn khái quát về gia đình dựa trên con người Việt Nam (VN). Con người VN bị tác động bởi những yếu tố địa lý, lịch sử đã kết thành một thực thể phức tạp với nhiều đức tính và khuyết điểm. Chính những con người này lại gắn bó với nhau thành gia đình. Chúng tôi hy vọng rằng cái nhìn này sẽ giúp bạn đọc khám phá ra những điều kỳ diệu, những nét đẹp bí ẩn và cả những khuyết điểm cần sửa chữa, những nguy hiểm phải đương đầu của gia đình VN. Chúng tôi tin rằng, chỉ khi hiểu rõ thật sự con người, ta mới có thể giải quyết những vấn đề trong gia đình theo tinh thần của Đức Kitô: “Sự thật sẽ giải phóng chúng ta” (x. Ga 8, 32) dù sự thật ấy có thể làm chúng ta mất lòng. Nói đến con người VN, chúng ta có thể nhắc đến bao điều kỳ diệu, bao đặc tính tốt đẹp mà nhiều người đã không ngớt lời ca tụng như Toan Ánh trong bộ Nếp Cũ – Con người VN, Sơn Nam trong Người Sài Gòn, Vương Hồng Sển trong Sài Gòn năm xưa … nhất là Vũ Hạnh (A. Pazzi) trong Người Việt kỳ diệu. Những lời ca tụng đó có thể ru ta vào giấc mộng dĩ vãng mà không dám nhìn thẳng vào thực tế để giải quyết những vấn đề về gia đình. Chúng tôi nhớ lại thí dụ tương tự của người Trung Hoa, khi đọc cuốn Người Trung Hoa xấu xí. Nhờ ý thức về các tật xấu và khuyết điểm đã ăn sâu trong con người mình qua dòng lịch sử và quyết tâm sửa đổi, họ đạt được những bước phát triển kỳ diệu về kinh tế, quân sự, chính trị như hiện nay. Chúng tôi hy vọng có một tác giả dám viết những tập sách tương tự để thức tỉnh dân tộc VN. Trong phạm vi bài này, chúng tôi dùng phương pháp phân tích con người và hoàn cảnh xã hội để nêu lên một số điểm khái quát về gia đình VN thời xa xưa và hiện tại trước khi đưa ra một vài đề nghị cho gia đình Công giáo VN. Chúng tôi cũng xin xác định từ “gia đình” chúng tôi nói ở đây theo nghĩa hẹp nhất, đó là “tập thể những người cùng sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ, con cái” (Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, 2002) và chưa mở rộng ý nghĩa đến gia đình nhân loại với “tứ hải giai huynh đệ”, gia đình vũ trụ với các thành phần vật chất liên hệ mật thiết với nhau hoặc gia đình Thiên Chúa theo quan niệm Kitô giáo.

1. GIA ĐÌNH VIỆT NAM XƯA

1.1. Về mặt địa lý

Nước Việt Nam là một dải đất hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía Đông bán đảo Đông Dương. Dù cùng một nguồn gốc, nhưng người VN và gia đình VN lại rất khác với người Trung Quốc ở phía Bắc, với người Lào và Cambodia ở phía Tây, vì những rặng núi hình rẻ quạt ở phía Bắc và dãy Trường Sơn hùng vĩ ở phía Tây đã ngăn cách họ với người VN, ngăn cản phần nào sự hoà nhập của các nền văn hoá khác nhau. Phía Đông, Nam và Tây Nam của đất nước là Biển Đông và Thái Bình Dương. Nền văn hoá dân tộc được xây dựng theo truyền thuyết những người con theo mẹ lên núi hái thuốc thành tiên và theo cha xuống biển vượt khó thành rồng. VN có 2.860 con sông có chiều dài từ 10km trở lên (Tổng Cục Du lịch, Non nước VN, Hà Nội 2000, tr.9), trong đó có nhiều hệ thống sông lớn như sông Mêkông, sông Hồng. Gắn bó với núi cao, biển rộng, sông dài nên người VN thường có nhiều tình cảm cao thượng, biết nhìn xa trông rộng và gần gũi với thiên nhiên. Hướng tiến bị bên núi, bên biển ngăn cản buộc dân tộc phải hướng về phía Nam từ đồng bằng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc (rộng 15.000 km2), vượt qua các đồng bằng nhỏ hẹp ở miền Trung để vào tới đồng bằng sông Cửu Long (rộng 40.000 km2) ở miền Nam. Bước chân khai phá của người Việt chỉ dừng lại trước biển cả ở cực Nam đất nước, nhưng thiên nhiên vẫn ưu đãi cho dân Việt nên bờ cõi tiếp tục mở rộng về phương Nam vì hằng năm đồng bằng Nam Bộ vẫn trải rộng lấn về phía biển từ 60 – 80m, do phù sa của các con sông Cửu Long bồi đắp. Người Việt, với tâm hồn của những người tiên phong, không sợ hiểm nguy, dám đối đầu với những thử thách, bất trắc của cuộc sống đã viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc.

Khí hậu cũng ảnh hưởng khá nhiều đến tâm tính con người và tình trạng gia đình. VN nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, nghiêng về chí tuyến hơn là xích đạo nên có nhiệt độ cao, trung bình từ 220C – 270C. Hằng năm, có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 – 2.000 ml/cm2, độ ẩm khoảng 80%, số giờ nắng khoảng 1.500 – 2.000 giờ/năm. Do ảnh hưởng của gió mùa và địa hình phức tạp, nên khí hậu VN luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi kia (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao).

Nhìn chung, VN có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh ít mưa. Nhưng khí hậu các tỉnh ở phía Bắc, từ đèo Hải Vân trở ra, thay đổi theo 4 mùa khá rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Khí hậu này cũng tạo ra những bất lợi về thời tiết như bão tố, lũ lụt, hạn hán thường xuyên đe doạ (x. Tổng Cục Du lịch, Non nước VN, Hà Nội 2000, tr.11-12). Do đó, tâm tính người VN có thể nói dễ thay đổi theo kiểu “sáng nắng chiều mưa” hơn những dân tộc sống trong các vùng khí hậu ổn định, ôn hoà. Gia đình từ đó cũng chịu những hậu quả của sự thay đổi thất thường này như: có nhiều cãi vã, xung đột hơn, kém thuỷ chung hơn…

Nhận ra sự tác động của thời tiết, ta sẽ thấy người mình cần tập sự kiên nhẫn, hiền hoà, ý chí vững mạnh để bảo vệ hạnh phúc gia đình.

1.2. Về mặt lịch sử

Tiếp đến chúng ta chú ý hơn về con người VN qua các giai đoạn lịch sử hình thành dân tộc.

1.2.1. Giai đoạn khởi phát từ khi con người khôn ngoan (homo sapiens) xuất hiện trên đất VN vào khoảng 23.000 năm trước Công Nguyên (TCN), qua các họ Hồng Bàng (2879 TCN) đến nước Âu Lạc do An Dương Vương Thục Phán (257-208 TCN) lập nên với thành Cổ Loa, hiện nay vẫn còn di tích ở Hà Nội. Người Việt đã bỏ cuộc sống bộ tộc trong những hang động miền cao để xuống định cư thành những làng mạc, với đơn vị căn bản là gia đình, ở đồng bằng sông Hồng. Các dân tộc này có chung một nền văn hoá thống nhất đó là nền văn hoá Đông Sơn, với những chiếc trống đồng tiêu biểu có hoa văn trang trí đẹp. Đây là tổ tiên của những người Kinh khởi đầu sống tập trung ở đồng bằng sông Hồng và cứ tiến dần về phía Nam theo hướng mở rộng của đất nước.

Trong khi đó, các dân tộc có chung nền văn hoá Sa Huỳnh sống ở miền Nam Trung bộ với những công cụ bằng sắt và các đồ trang sức bằng mã não. Nền văn hoá này trải rộng từ Thừa Thiên đến lưu vực sông Đồng Nai. Họ là tổ tiên của người Chăm đã xây dựng nên vương quốc Champa.

Nhóm thứ ba là những dân tộc thuộc nền văn hoá Óc Eo ở cực Nam trong các tỉnh Long An – Đồng Tháp và khắp miền châu thổ sông Cửu Long. Họ là tổ tiên của người Khơme.

Tất cả các dân tộc ấy tạo thành cộng đồng người Việt với 54 sắc tộc khác nhau và người Kinh chiếm tới 90% dân số.

Trong dòng lịch sử, những dân tộc ấy sống hoà thuận với nhau mà không có kỳ thị rõ rệt hay phân biệt gay gắt, thậm chí có rất nhiều cuộc hôn nhân giữa các chủng tộc, dù những kẻ ngoại xâm cố tình gây chia rẽ. Điều này nói lên tính hoà đồng của người Việt.

1.2.2. Sự thống trị của các đế chế Trung Hoa kéo dài trong 11 thế kỷ ảnh hưởng không ít tới con người cũng như gia đình VN. Năm 179 TCN, nước Âu Lạc bị Triệu Đà, vua của nước Nam Việt chiếm. Năm 111 TCN, nước Nam Việt bị chuyển sang tay nhà Hán rồi trải qua nhiều đời vua Trung Hoa cho đến khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán, trên sông Bạch Đằng, năm 938, khôi phục nền độc lập cho đất nước.

Dù sống dưới chế độ bóc lột hà khắc với chính sách chia để trị, người Việt vẫn kiên nhẫn chịu đựng gian khổ, biết chờ thời cơ trổi dậy với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43), Bà Triệu (248), Lý Bí (thế kỷ VI), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-791). Tuy nhiên, vì sống quá lâu dưới ách thống trị, người Việt có đặc trưng thường nhút nhát, sợ sệt, không dám bày tỏ trực tiếp ý kiến của mình, nhất là trước mặt người lạ. Họ hay giấu diếm tình cảm của mình để tránh cho quân thù khỏi làm hại, dễ nghi ngờ vì nghĩ rằng ai cũng có thể là kẻ thù, thiếu tin tưởng và ít cộng tác với người khác ngay cả với người thân thuộc. Những đặc tính này tạo ra nhiều điểm bất lợi cho đời sống gia đình vì gia đình là một cộng đồng đòi hỏi sự hiệp thông trọn vẹn giữa các thành viên, cần sự cởi mở chân thành, tin tưởng và lo lắng cho nhau. Dù thời Bắc thuộc đã qua nhưng những di chứng tiêu cực dường như vẫn còn ăn sâu trong tâm hồn người Việt.

Hầu hết người Việt yêu mến quê hương dân tộc và chống lại kẻ ngoại xâm. Để biểu thị sự bất hợp tác, họ chỉ làm việc cầm chừng dưới ánh mắt theo dõi của quân thù và ra vẻ chăm chỉ khi bị giám sát dưới làn roi hành hạ. Do làm mãi dưới chế độ này người Việt dễ trở thành người làm việc nửa vời, chỉ cố gắng khi có sự theo dõi của người khác thay vì làm việc với ý thức về trách nhiệm của mình. Ngoài ra, vì quan niệm tất cả những gì công cộng như vườn cây, đường xá, cầu cống… đều là của chung, do kẻ thù quản lý, nên họ chẳng thiết tha gìn giữ. Hơn nữa, những thứ chung đó cũng là do sưu cao thuế nặng của họ đóng cho Nhà nước đô hộ nên họ nghĩ có lấy cắp của công cũng chỉ là hoàn trả cho mình, thậm chí có người còn cho rằng: “Ăn cắp của công là không có tội”.

Về mặt gia đình và xã hội, Nhà nước đô hộ Trung Hoa thời đó chỉ nhằm khai thác kinh tế nên không chú ý đến việc xây dựng và giáo hoá dân Việt. Bị ảnh hưởng bởi nền văn hoá Trung Hoa, xã hội VN thời đó vẫn theo chế độ đa thê: người đàn ông có thể có nhiều vợ, nhiều tỳ thiếp, nhất là những người giàu. Nền kinh tế dựa trên nông nghiệp thô sơ, cần có nhiều lao động khoẻ, nên gia đình càng đông con nhiều cháu thì càng tốt, nhất là con trai vì “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô“. Xã hội theo chế độ gia trưởng, mọi quyền hành đều tập trung vào người đàn ông, nên phụ nữ thường bị đối xử bất bình đẳng. Sống trong hoàn cảnh như thế, người phụ nữ vẫn âm thầm chịu đựng những thua thiệt và áp bức để thờ chồng, nuôi con. Tình trạng này kéo dài đến đầu thế kỷ XX mới chấm dứt.

Trong khi đó người đàn ông làm việc quần quật suốt ngày ở đồng áng, chiều về họ thường tụ tập với nhau bên chén rượu để quên đi nỗi vất vả nhọc nhằn. Những chai rượu làm từ nông sản ấy tuy có giúp họ quên đi nỗi cơ cực, nhưng lại ảnh hưởng nặng nề tới hạnh phúc gia đình. Khi người đàn ông say khướt trở về nhà, họ trở thành người nóng tính, hay đánh đập vợ con. Rượu đã tàn phá sức khoẻ của người say và làm con cái họ thường kém thông minh, thân thể yếu ớt. Tình trạng say sưa rất phổ biến ở nông thôn thời trước và ngay cả bấy giờ đối với dân thành thị, nhưng chính quyền đô hộ vẫn cố tình làm ngơ để giảm bớt sức đấu tranh của dân tộc Việt.

1.2.3. Giai đoạn độc lập và thống nhất đất nước dưới thời quân chủ bắt đầu từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, trải qua ba triều đại nhỏ là Ngô (939 – 965), Đinh (968 – 980), Tiền Lê (980 – 1009) và bốn triều đại lớn: Lý (1009 – 1225), Trần (1226 – 1400), Lê (1428 – 1788), Nguyễn (1802 – 1945), xen kẽ với ba triều đại nhỏ là: Hồ (1400 – 1407), Hậu Trần (1407 – 1414), Tây Sơn (1788 – 1802). Người Việt ra sức củng cố nền độc lập non trẻ bằng các cuộc chiến thắng ngoại xâm: Lê Hoàn thắng quân Tống năm 981 và Lý Thường Kiệt thắng quân Tống năm 1077, Trần Hưng Đạo thắng quân Nguyên Mông vào các năm 1258, 1285, 1288, Lê Lợi thắng quân Minh sau mười năm chiến đấu, vua Quang Trung Nguyễn Huệ chiến thắng quân Xiêm (1785) ở Rạch Gầm, Xoài Mút và đại phá quân Thanh vào năm 1789. Tinh thần ái quốc dâng cao khiến người Việt sẵn sàng hy sinh tình riêng gia đình vì đại nghĩa của đất nước. Bài học của giai đoạn này như giới thiệu cho người Việt, nam cũng như nữ, là phải biết bảo tồn dòng họ của mình, khi mở rộng tình gia đình thành gia tộc. Từng cá nhân phải biết hy sinh quyền lợi cho dòng tộc.Gắn bó với những người đã khuất trong dòng tộc, người Việt chứng tỏ lòng thảo hiếu qua việc thờ cúng tổ tiên mà nhiều người hiểu lầm là đạo ông bà. Ta khó có thể coi đây là một đạo vì không có giáo chủ, cũng chẳng có giáo điều. Nhiều người Việt vừa thờ cúng tổ tiên mà vẫn theo một tôn giáo khác như Phật giáo, Cao Đài giáo, Công giáo. Trong việc thờ cúng tổ tiên, người Việt lập bàn thờ tại nhà với bài vị của những người đã khuất, cúng bái trong những ngày sóc, vọng, giỗ, Tết. Việc này tạo lại mối tương quan mật thiết với cả những người sống để xoá đi phần nào sự nghi ngại chia rẽ do thời đô hộ để lại. Sự gắn bó với dòng tộc đôi khi quá mức khiến nhiều người lại khép kín với đồng bào, chỉ tin tưởng bao che cho những người thân thuộc, tạo nên sự bất công đối với người khác đến độ “một người làm quan cả họ được nhờ“.

Trong thời kỳ này, chúng ta ghi nhận một vài điểm quan trọng ảnh hưởng đến tâm tính con người và gia đình VN. Trước hết là ảnh hưởng của Tam giáo Đông Phương, đặc biệt là Khổng giáo. VN chịu tác động bởi ba tôn giáo lớn: Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo. Cả ba đều đến từ Trung Hoa, chỉ riêng Phật giáo lại chia làm hai ngả, Phật giáo theo phái Đại Thừa từ Trung Hoa truyền sang miền Bắc và Phật giáo theo phái Tiểu Thừa từ Tích Lan truyền qua Myamar, Thái Lan, Cambodia và vào miền Nam VN.

Phật giáo ảnh hưởng nhiều đến quần chúng bình dân, nhất là dưới thời Lý – Trần, với thuyết Luân Hồi, với Tứ Diệu Đế, với luật Nhân Quả để nuôi dưỡng lòng đạo đức, giải thích cho người dân hiểu về nguồn của bể khổ đời người là do lòng dục, vì thế muốn diệt khổ phải từ khước lòng dục của mình bằng cách theo Bát Chánh đạo.

Khổng giáo hay Nho giáo là hệ thống các nguyên tắc đạo đức, chính trị do Khổng Tử sáng lập nhằm duy trì trật tự của xã hội phong kiến nên ảnh hưởng nhiều đến vua quan và quần chúng trong cách tổ chức xã hội. Nho giáo khởi đầu với việc lập Văn Miếu (1070), Quốc Tử Giám và tổ chức thi cử (1076) và càng ngày càng chiếm ưu thế cho đến khi đạt được địa vị độc tôn vào thế kỷ XVIII – XIX. Người VN ứng xử trong các quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm, vua quan theo những chuẩn mực của lễ nghĩa Nho giáo như Tam cương – Ngũ thường, để có thể “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên ha“. Những chuẩn mực của Nho giáo có mặt tốt là giữ cho xã hội được trật tự ổn định, nhưng lại dẫn đến sự áp chế của một con người hay một dòng họ nắm trọn quyền sinh sát trong tay “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung“. Chúng không giải phóng được con người, không mở ra cho con người thấy bầu trời bao la của việc “trị quốc, bình thiên ha” mà chỉ trở thành những người trí thức luẩn quẩn với những bài phú, bài thơ, bài văn nhai đi nhai lại những câu trích dẫn thuộc lòng trong Tứ Thư Ngũ Kinh. Thật ra, tư tưởng Nho giáo rất thâm sâu nhưng ít người hiểu thấu.

Chúng không những không cải tạo được tình trạng đa thê hay bất bình đẳng nam nữ, như ta từng thấy trong thời bị Trung Hoa đô hộ mà còn làm cho người phụ nữ càng bị lệ thuộc hoàn toàn vào người đàn ông “Trai thì năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng“, vào dòng họ của chồng “Lấy chồng thì phải theo chồng, lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng“. Người phụ nữ chỉ còn là cái bóng của người đàn ông vì họ được dạy phải có đủ tam tòng – tứ đức “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tư” chứ không còn là một con người thật sự độc lập với tất cả giá trị làm người.

Cũng không được học rộng vì càng có nhiều tư tưởng mới lạ họ càng dễ ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền: chỉ cần một câu thơ không rõ ý cũng có thể bị kết tội phản nghịch và bị tru di tam tộc. Mỗi làng chỉ có một vài người được đi học còn tất cả nam cũng như nữ, già cũng như trẻ đều đầu tắt mặt tối với công việc đồng áng. Chính sách chuyên chế này làm cho người Việt không phát triển óc suy tư, sáng tạo của mình. Ngoài ra, những hủ tục hôn nhân như tục tảo hôn, tục mê tín (xem tuổi tác) trong cưới xin, tục kén vợ, kén chồng để môn đăng hộ đối, tục mua nàng hầu… dẫn đến sự suy thoái của nòi giống, dẫn đến gia đình bị tan vỡ do vợ chồng không hợp nhau, dẫn đến việc không tôn trọng tình cảm riêng tư của con người, và cuối cùng người phụ nữ chỉ được xem như là một món hàng để mua bán đổi trao. Nhiều làng xã có những quy định hết sức khắt khe về hôn nhân đến độ “phép vua thua lệ làng“, như đối với những người phụ nữ ngoại tình, những cô gái chửa hoang khiến cho giá trị của con người không còn được tôn trọng.

Cuối cùng, Lão giáo du nhập vào VN đồng thời với Phật giáo và Nho giáo ngay từ thời Bắc thuộc, đến đời vua Đinh Tiên Hoàng (cuối thế kỷ X) đã khá phát triển ở nước ta. Lão giáo chủ trương vô vi (không làm), “nghĩa là chủ ý cốt theo cách tự nhiên thanh tĩnh không cần phải làm gì, nghĩa là muôn việc cứ phó mặc tự nhiên, không cần phải lo lắng, nghĩ ngợi mới hưởng sự khoái lạc phiêu diêu” (Toan Ánh, Nếp cũ – Tín ngưỡng VN, quyển Thượng, NXB TP.HCM, 1992, tr. 221). Chủ trương này đúng ra là thái độ sống của những nhà trí thức Nho giáo. Dần dần đạo Lão đi vào các tầng lớp bình dân và biến thể thành những hình thức bí hiểm mê tín như phù phép, sấm ký, chầu đồng, thẻ sâm, bói toán, với các thần tiên ẩn thân trong vạn vật: “bếp thì có ông Táo, đất có Thổ Công, sông có Hà Bá“. Tuy nhiên, cái nhìn “linh hoá vạn vật” này lại giúp cho người VN vượt qua thái độ quá chuộng hình thức lễ nghĩa tỉ mỉ, vụn vặt của Nho giáo để đến gần với thiên nhiên và tìm được sự khoáng đạt cho tâm hồn.

Chúng ta không thể không nhắc đến ảnh hưởng của Kitô giáo trong thời kỳ này. Kitô giáo được truyền vào VN là đạo Công giáo theo lễ nghi Roma, qua các giáo sĩ dòng Đa Minh, dòng Phanxicô người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI, nhất là các giáo sĩ dòng Tên vào thế kỷ XVII. Các giáo sĩ này nói được tiếng Việt, sáng lập ra chữ quốc ngữ và đóng góp nhiều về khoa học, cũng như xã hội cho các vua chúa của cả hai miền Nam Bắc. Họ truyền bá một giáo thuyết khác với Tam giáo Đông phương về nhiều điểm nên gặp sự chống đối mãnh liệt của vua quan, nhưng đó lại là những sự thật cơ bản. Sự thật đó là tất cả mọi người đều có giá trị cao quý như nhau vì đều là con cái Chúa, đều tự do và bình đẳng trước pháp luật chứ không phải vua có toàn quyền sinh sát trong tay, hôn nhân một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng và có giá trị như nhau…

Điều không may cho Công giáo là vào thời điểm này, các đế quốc thực dân đi chiếm thuộc địa và các nhà truyền giáo lại theo chân họ vào VN gây nên nhiều hiểu lầm và cả những cuộc bách hại. Khi quân đội Pháp bắn thị uy vào cảng Đà Nẵng (1847) và nhanh chóng chiếm được các tỉnh miền Đông Nam Kỳ (1862), rồi đặt nền đô hộ từ 1862-1945 thì người VN, với chính sách bế quan toả cảng của vua quan, dẫn đến ngu dốt, lạc hậu, yếu kém, như bừng tỉnh trước sức mạnh trổi vượt về quân sự, khoa học, kỹ thuật của quân thù. Họ giống như người Trung Quốc bừng tỉnh sau cuộc Chiến tranh Nha phiến (1839 – 1842) và thấy rằng: “Cái học nhà Nho đã hỏng rồi!” (Trần Kế Xương). Họ muốn được như người Nhật cởi mở với nền văn minh kĩ thuật của phương Tây nên phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để… đã ra đời. Dân tộc VN bước vào một thời kỳ mới.

1.2.4. Thời kỳ phát triển và hội nhập với thế giới (1945 – 2000)

Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Ngay sau đó, thực dân Pháp trở lại xâm lược Đông Dương và nhân dân VN đã kháng chiến để bảo vệ nền độc lập của mình. Thế giới vào thời điểm 1945 – 1975 chia thành 2 phe xung đột mãnh liệt: Tư bản và Cộng sản. VN, do hoàn cảnh và vị trí đặc biệt, lại trở thành giới tuyến cho 2 phe phái trên đây. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), với hiệp định Genève, người Pháp rút khỏi miền Bắc VN, nước VN tạm thời bị chia làm 2 miền: miền Bắc là nước VN Dân chủ Cộng hoà theo chế độ Cộng sản; miền Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào, là nước VN Cộng Hoà theo chế độ Tư bản. Từ năm 1964 – 1975, chính quyền Cộng sản ở miền Bắc lãnh đạo cuộc chiến tranh chống lại chính quyền Tư bản ở miền Nam. Ngày 30- 4-1975, chính quyền Sài Gòn ở miền Nam sụp đổ, VN hoàn toàn thống nhất, lấy tên là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Bỏ qua sự khác biệt về nhiều lĩnh vực, cả hai chế độ có nhiều điểm tích cực đóng góp vào tâm tính của người Việt: đó là sự yêu chuộng những điều mới mẻ dựa trên khoa học để phát triển đời sống, óc duy nghiệm chỉ tin vào những điều kiểm chứng được nhờ khoa học, nhất là óc duy vật cố gắng làm việc để có nhiều phương tiện vật chất, cho đời sống được ấm no, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh. Óc duy nghiệm này còn giúp cho người Việt vượt qua những mê tín dị đoan thời trước và ý thức được sức mạnh thật sự của mình.

Sau khi giành được độc lập, người Việt cố gắng xây dựng lại đất nước bằng cách du nhập các lối sống và khoa học kỹ thuật của các nước trong cộng đồng thế giới. Họ trở thành những con người hiểu biết nhờ trình độ văn hoá được nâng cao. Nếu như trước kia, cả làng chỉ có một hai người biết chữ để làm văn tự, sổ sách, thì giờ đây hầu như mọi người đều được khuyến khích đi học, mọi trẻ em bắt buộc phải đi học. Qua việc học hành và các phương tiện truyền thông như báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, và cả mạng lưới thông tin toàn cầu (internet), người Việt càng ngày càng thông thạo khoa học, phát triển nền kinh tế, khai thác được các nguồn tài nguyên phong phú của đất nước. Nếu như trước đây, người VN tin vào Trời – Phật độ trì, vào thiên mệnh của Nho giáo (Thiên bất dung gian), vào Thiên Chúa của Kitô giáo, vào Ông bà Tổ tiên thì giờ đây, những bài học duy vật hình như lại dạy người ta chối bỏ tất cả, không còn thần thánh hoặc chỉ có con người vật chất sống vài chục năm trên cõi đời này rồi lại qua đi, đến nỗi cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tự hỏi: “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi trở về cát bụi?“. Một khi con người đánh mất ý nghĩa của đời sống vĩnh cửu, của thần linh thì người ta dám làm bất cứ điều gì để chiều theo những tham vọng và dục vọng!

Người Việt ở miền Bắc, trong cuộc chiến đấu để bảo vệ nền độc lập và chủ nghĩa xã hội giai đoạn 1945 – 1975, đã hô hào vượt qua gia đình để lo cho đất nước, vượt qua tổ quốc để xây dựng quốc tế cộng sản, bãi bỏ tôn giáo vì cho đó là thứ thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Cuộc cải cách ruộng đất (1953-1956), với những màn đấu tố, đã phá hoại truyền thống hiếu hoà, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Nó làm tan vỡ luân thường đạo lý của gia đình, xã hội khi cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em, bạn bè, hàng xóm…, dùng những hình thức dối trá để tố cáo lẫn nhau. Điều ấy đã ăn sâu vào tiềm thức, tạo nên nếp sống giả dối, vô đạo đức của nhiều người.

Còn người Việt ở miền Nam, tuy vẫn công nhận quyền tự do tôn giáo và để các tôn giáo phát triển, nhưng thái độ duy vật thực hành cũng dần dần gây nhiều tác hại đến gia đình. Người ta vẫn đi chùa lễ Phật, vẫn cầu nguyện tại các thánh đường Công giáo, các nhà hội Tin Lành nhưng hầu như đó chỉ là những hình thức tôn giáo bên ngoài. Thực tế, hầu hết mọi người chỉ cố gắng làm ra thật nhiều tiền để sống sung sướng, hưởng thụ hơn là tìm ra thái độ đích thực trước Trời, Phật, Thiên Chúa và sống yêu thương, phục vụ người khác, nhất là những người nghèo. Do đó tệ nạn xã hội gia tăng với hàng trăm ngàn cô gái mãi dâm, người nghiện ma tuý, người phá thai; nhiều gia đình ly tán, ly thân, ly dị, và cuối cùng cũng là cuộc sống vô đạo đức của nhiều người.

Một điều cần ghi nhận ở đây là do cuộc chiến giữa hai miền Nam – Bắc, nhiều người nhất là những người trẻ có tâm trạng “yêu cuồng, sống vội“, hối hả hưởng thụ cuộc sống trước khi phải ra chiến trường, với tâm trạng không cần biết đến ngày mai, vì nghĩ rằng bom đạn vô tình có thể phá hoại tất cả những gì người ta xây dựng hôm nay. Tâm trạng này có thể dẫn đến những hành động xúc phạm đến phẩm giá con người và làm tan vỡ hạnh phúc gia đình như mãi dâm, nghiện rượu, nghiện ma tuý… Đồng thời, để làm suy yếu lực lượng đối phương, người ta lại khơi dậy những chia rẽ, nghi ngờ đã ẩn sâu trong tiềm thức của người Việt từ các thời trước. Do đó, một trong những đức tính cơ bản người Việt chúng ta cần đào luyện là phải biết tin tưởng và cộng tác với nhau, dù bá nhân bá tánh. Có như thế chúng ta mới hy vọng có được một tương lai tốt đẹp cho bản thân, gia đình và xã hội.

2. GIA ĐÌNH VIỆT NAM NGÀY NAY

Sau khi gợi lên một vài nét về con người và gia đình Việt Nam thời trước, chúng ta tìm hiểu về gia đình Việt Nam ngày nay từ thời điểm 2000. Thời điểm này chỉ là một cột mốc giả định để từ đó chúng ta dễ dàng đánh giá và suy tư vì thật ra không có một biến chuyển đột ngột nào xảy đến cho con người và gia đình Việt Nam vào thời điểm này. Ngoài ra, chúng tôi chọn thời điểm 2000 vì muốn hoà mình với dân tộc bước vào thiên niên kỷ mới và cuộc Tổng điều tra dân số Việt Nam được thực hiện trong năm 1999 như là một tổng kết về nhiều mặt để bắt đầu một giai đoạn mới cho dân tộc.

2.1. Một vài số liệu thống kê về tình trạng hôn nhân ở Việt Nam

Để suy tư của chúng ta có nền tảng chắc chắn, có lẽ ta nên căn cứ trên những dữ liệu thực tế về tình trạng hôn nhân ở Việt Nam. Chúng tôi xin tóm lược vài số thống kê mà chúng tôi đã ghi nhận qua cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam được thực hiện vào ngày 1-4-1999, nhưng kết quả điều tra toàn bộ chỉ mới được công bố gần đây qua 2 cuốn sách Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999 Chuyên khảo về hôn nhân, sinh đẻ và tử vong ở Việt Nam do Cục Thống kê xuất bản vào tháng 8 và tháng 4-2001. Chúng tôi cũng đã khai thác một số kết quả này qua những bài viết về xã hội đăng trong tập Loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay do Uỷ ban Bác ái Xã hội phát hành, tháng 6-2003.

2.1.1. Dân số

Trước hết chúng ta ghi nhận dân số Việt Nam trong vài năm gần đây.

Chúng ta lưu ý đến mức độ đô thị hoá càng ngày càng tăng theo xu hướng toàn cầu: ngay ở trong nước từ năm 1990 đến nay tỷ lệ dân số thành thị ngày càng gia tăng.

 

Dân số trung bình phân theo thành thị, nông thôn

Đơn vị: nghìn người

Năm

Tổng số

Thành thị

Tỷ lệ

Nông thôn

Tỷ lệ

1999

66.016,7

12.880,3

19,51

53.136,4

80,49

2000

 

77.635,4

18.805,3

24,22

58.830,1

 75,78

2001

78.685,8

19.481,0

24,76

59.204.8

75,24

2002

79.727,4

20.004,0

25,09

59.723,4

74,91

Nguồn: Cục Thống kê TP. HCM, Niên Giám Thống kê 2002, TP. HCM 4-2003, tr. 238.

Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước Đông Nam Á hoặc các nước phát triển, tốc độ đô thị hoá Việt Nam còn chậm và tỷ lệ dân số thành thị còn thấp. Thí dụ vào năm 2001, nếu dân số sống ở thành thị Việt Nam là 25%, thì Nhật Bản 78%, Hàn Quốc 79%, Mông Cổ 57%, Đài Loan 77%, Bruney 67%, Indonesia 39%, Malaysia 57%, Philippines 47%, Singapore 100%, Thái Lan 30%. Tính chung châu Á 42%, Đông Nam Á 36%, Tây Á 65%, các nước Bắc Âu 83%, Đông Âu 68%, Tây Âu 79%, Nam Âu 70%. Bắc Mỹ 75%, Nam Mỹ 79%, Trung Mỹ 66% (x. Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên Giám Thống kê 2001, NXB Thống kê, Hà Nội 2002, tr 491-497).

2.1.2. Tình trạng hôn nhân nói chung Trong Tổng điều tra dân số và nhà ở 1999, thông tin về tình trạng hôn nhân được thu thập cho những người từ 13 tuổi trở lên. Tỷ trọng người dưới 15 tuổi kết hôn không đáng kể: 10.338 người có vợ/chồng, 385 goá, 80 ly hôn, 105 ly thân trong tổng số 3.677.695 người độ tuổi 13-14 (x. Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra Dân số và nhà ở Việt Nam 1999, NXB Hà Nội, 8-2001, tr. 219). Tuy nhiên, điều này cũng cho ta thấy tục kết hôn sớm vẫn còn tồn tại ở Việt Nam, mà câu ca dao thời xưa còn vang bóng một thời:

Lấy chồng từ thuở mười ba

Đến năm mười tám thiếp đà năm con.

Ra đường thiếp hãy còn son

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.

Nếu tính số dân từ 13 tuổi trở lên ta có thống kê sau đây:

Tình trạng kết hôn là khá phổ biến ở Việt Nam nhất là đối với nam giới. Nói khác đi, hầu hết người Việt Nam đều kết hôn vào một thời gian nào đó trong cuộc đời của họ, đặc biệt là khi họ ở vào giai đoạn cuối của thời kỳ có khả năng sinh sản (từ 50 tuổi trở lên). Vào thời điểm kiểm tra trong cả nước, tính từ 13 tuổi trở lên có 33,5% chưa vợ chưa chồng, 59,11% có vợ/có chồng và 7% còn lại ở trong tình trạng goá bụa. Tỷ lệ người ly hôn và ly thân hầu như không đáng kể. Tuy nhiên, tình trạng ly hôn và ly thân sẽ càng ngày càng cao, nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Trong những năm gần đây, tỷ lệ ly hôn ở TP. HCM so với kết hôn là 15% và năm 2002 là 14,23% 11.508 vụ ly hôn/80.824 kết hôn (x. Nguồn: Sđd. Cục Thống kê TP.HCM, Niên giám Thống kê 2002, TP.HCM, 4-2003, tr. 22).

 

Mục

Chung

Nam

Nữ

Tổng dân số

54.728.902

26.386.734

28.342.509

Chưa vợ/chồng

18.335.707

9.785.714

8.549.993

Có vợ/chồng

32.353.354

15.961.490

16.391.864

Goá

3.403.894

469.355

2.934.539

Ly hôn

358.902

86.936

271.966

Li thân

256.392

74.122

182.270

Không xác định

20.653

8.776

11.877

          (Nguồn: Sđd, Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số, tr. 219-222).

Số người chưa vợ/chồng là 18.335.707 người, nhưng nếu tính từ 13-29 tuổi đã lên tới 16.926.239 người, chiếm 92,31% tổng số. Những người này chắc chắn vẫn còn khả năng kết hôn. Số người chưa lập gia đình ở độ tuổi 30 trở lên là 1.409.168 người, chỉ chiếm 7,68% tổng số.

Nữ kết hôn sớm hơn nam. Ở độ tuổi dưới 30, tỷ trọng chưa kết hôn của nữ thấp hơn nam nhưng sau tuổi 30, tỷ trọng này lại cao hơn nam. Điều này chứng minh rằng nam kết hôn muộn hơn nữ, hôn nhân của nam là khá phổ biến (có vợ tuổi 30-59: 94-96%) trong khi một số phụ nữ vẫn chưa kết hôn được (phụ nữ có chồng ở độ tuổi 30-39: 86%, tuổi 40-49: 79%; tuổi 50-59: 66%) (x. Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số…, Chuyên khảo về hôn nhân, sinh đẻ và tử vong ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội, 2001, tr. 1-3). Người ta giải thích sự khác biệt này là do mức độ tử vong của nam cao hơn nữ, do tai nạn nghề nghiệp, do chiến tranh thời kỳ 1960-1975 và vì nam goá vợ thường tái kết hôn nhiều hơn nữ.

* Có sự khác biệt về mức độ kết hôn giữa thành thị và nông thôn.

Tỷ lệ dân số chưa vợ chưa chồng của thành thị cao hơn của nông thôn (36,9% so với 32,3%) trong khi dân số có vợ có chồng ở thành thị thấp hơn ở nông thôn (56% so với 60%) Tỷ lệ ly hôn ở thành thị cao hơn ở nông thôn (1% so với 0,53%) trong khi số ly thân gần bằng nhau (0,43% so với 0,47%) (Xem bảng Dân số từ 13 tuổi trở lên xét theo thành thị, nông thôn về tình trạng hôn nhân).

* Một điểm đáng lưu ý là số người hiện đang có vợ thấp hơn người hiện đang có chồng. Trong TĐTDS 1999 cho ta thấy 15.961.490 nam có vợ so với 16.391.864 nữ có chồng: chênh lệch 430.356 người. Sự chênh lệch này được giải thích là có thể do hiện tượng đa thê vẫn còn tồn tại tuy rất ít ở miền núi, hoặc do khi sai sót khi làm điều tra: thực tế cho thấy một số khá đông phụ nữ có con, nhưng chưa kết hôn, tự khai là có chồng, hoặc đã ly hôn và ly thân nhưng vẫn có thể khai là có chồng để tránh những khó khăn và điều tiếng trong xã hội.

 

Dân số từ 13 tuổi trở lên xét theo thành thị, nông thôn về tình trạng hôn nhân

Mục

Tổng số dân

Chưa có vợ/ chồng

Có vợ/ chồng

Goá

 Ly hôn

Ly thân

Không

xác định

Thành thị

13.881.498

5.124.998

7.775.340

771.279

139.337

60.653

9.891

 

Nông thôn

40.847.404

13.210.709

24.578.014

2.632.615

219.565

195.739

10.762

 

 

2.1.3. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu Dù có những người kết hôn sớm, nhưng tuổi kết

hôn trung bình lần đầu cho biết số năm trung bình của một thế hệ. Chỉ tiêu này thường được tính riêng theo từng giới. Đối với phụ nữ, khoảng cách giữa hôn nhân lần đầu với thời điểm sinh con đầu lòng thường ngắn, nên tuổi này cũng là một chỉ báo khởi đầu giai đoạn sinh đẻ của phụ nữ. TĐTDS 1999 cho ta biết kết quả sau:

 

Tuổi kết hôn trung bình lần đầu Chia theo giới tính và thành thị/nông thôn.

Mục

Nam

Nữ

Chênh lệch

Toàn quốc

25,3

22,7

2,5

Thành thị

27,5

24,4

3,1

Nông thôn

24,5

22,1

2,3

 

Nếu so sánh với TĐTDS 1989 thì tuổi này ở nam tăng gần 1 năm, từ 24,5 lên 25,3; ngược lại ở nữ lại giảm đi chút ít, từ 23,2 xuống 22,7 năm. Như thế là nam giới lập gia đình muộn hơn, giống như xu hướng của nam giới ở nhiều nước châu Á (trừ Trung Quốc 23,8; Indonesia 25,2) và các nước phát triển khác. Nam giới trên thế giới có tuổi kết hôn trung bình 28-30 và nữ giới khoảng 24-27.

So sánh khu vực thành thị và nông thôn, tuổi kết hôn lần đầu của người thành thị cao hơn nông thôn đến 3 tuổi cho nam và hơn 2 tuổi cho nữ. Nếu so sánh với các vùng khác trên đất nước thì tuổi này cao nhất ở Miền Đông Nam bộ, nơi có TP. HCM, tiếp đến là Duyên Hải Nam Trung bộ (từ Đà Nẵng tới Khánh Hoà), thấp nhất là Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình), tiếp đến là Đông Bắc (Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Ninh, Quảng Ninh…). Ta có biểu đồ sau đây:

Tuổi kết hôn trung bình lần đầu chia theo giới tính và vùng

2.1.4. Tình trạng goá bụa

Số người goá ở nước ta khá đông 3.403.894. Số người nữ goá chồng cao gấp hơn 6 lần so với nam giới goá vợ: 2.934.539/469.355. Phần lớn người goá bụa từ lứa tuổi 60 trở lên là do chiến tranh trong những năm 1960-1975 gồm 2.262.410 người.

 

Tỉnh/vùng

Nam

Nữ

Chênh lệch

Đồng bằng sông Hồng

25,2

22,2

3,0

Đông Bắc

23,8

21,6

2,2

Tây Bắc

22,8

20,9

1,9

Bắc Trung Bộ

24,7

22,7

2,0

Duyên hải Nam Trung bộ

26,2

23,7

2,5

Tây Nguyên

24,8

21,3

3,4

Đông Nam bộ

27,0

23,9

3,0

Đồng bằng sông Cửu Long

25,0

22,9

2,1

(x. Nguồn: Sđd, Tổng Cục Thống kê, Tổng kết điều tra dânsố…, Chuyên khảo về hôn nhân…, 2001, tr.8-9).

Tuy nhiên, trong số 2.523.221 người nam trên 60 tuổi chỉ có 354.615 người goá vợ thì trong số 3.613.178 người nữ, có tới 1.907.791 người goá chồng, nghĩa là cứ 2 người phụ nữ là có hơn 1 người ở goá. Ở khu vực thành thị, tỷ lệ goá chồng của nữ từ 60 tuổi trở lên cao hơn 2 điểm so với nông thôn: 55% so với 53%. Miền Duyên Hải Nam Trung bộ có tỷ lệ goá chồng cao nhất, tiếp đến là miền Đông Nam bộ.

Tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên goá vợ hoặc goá chồng chia theo giới tính và vùng

Tình trạng goá bụa này đặt ra nhiều vấn đề cho xã hội: làm cách nào để giúp các người goá bụa này được sống no đủ, hạnh phúc vì nhiều người đang phải sống trong tình trạng nghèo khổ, già nua, bệnh tật và chịu những áp lực về tâm lý nặng nề.

 

Tỉnh/vùng

Nam

Nữ

-Toàn quốc

14,0

53,2

+ Thành thị

12,9

54,7

+ Nông thôn

14,2

52,8

Đồng bằng sông Hồng

12,8

51,8

Đông Bắc

13,8

50,4

Tây Bắc

14,2

51,7

Bắc Trung bộ

14,6

50,3

Duyên hải Nam Trung bộ

14,0

57,8

Tây Nguyên

14,7

55,1

Đông Nam bộ

13,9

56,1

Đồng bằng sông Cửu Long

14,7

54,2

 (x. Nguồn: Sđd, Tổng Cục Thống kê, Tổng kết điều tra dân số…2001, tr.219 và Chuyên khảo về hôn nhân…, 2001, tr.11-12).

Số liệu cho thấy tỷ trọng có quan hệ tỷ lệ nghịch với trình độ học vấn và nghề nghiệp. Đối với cả nam lẫn nữ, nhóm người có học vấn càng cao, nghề nghiệp càng ổn định, thì tỷ trọng goá càng thấp. Ta có biểu đồ Tỷ lệ dân số goá từ 60 tuổi trở lên theo giới tính và một số đặc trưng

2.1.5. Tình trạng kết hôn ở tuổi vị thành niên

Ở Việt Nam, một số con trai và con gái bắt đầu kết hôn rất sớm, ngay từ 13 tuổi, nhất là đối với một vài dân tộc thiểu số, nhiều người ở độ tuổi 15-19. Ở độ tuổi này họ chưa hiểu biết gì nhiều về đời sống vợ chồng, cơ thể chưa phát triển đầy đủ cho việc sinh sản, nhiều người chưa có khả năng để sống tự lập. TĐTDS 1999 cho ta số liệu ở biểu đồ Dân số từ 13 tuổi trở lên chia theo nhóm tuổi, giới tính và tình trạng hôn nhân:

Nếu tính tỷ lệ phần trăm dân số đã từng kết hôn của tuổi 13-19 ta sẽ thấy tỷ trọng ở tuổi 13 rất thấp, thường là 0,1% nhưng tỷ trọng này tăng rất nhanh theo tuổi. Nói chung khi tăng thêm 1 tuổi tỷ lệ này tăng gấp 2 hoặc hơn 2 lần.

Tỷ lệ dân số goá từ 60 tuổi trở lên theo giới tính và một số đặc trưng Dân số từ 13 tuổi trở lên chia theo nhóm tuổi, giới tính và tình trạng hôn nhân

(x. Nguồn: Sđd, Tổng cục Thống kê…, Tổng điều tra… tr.222)

 

Mục

Nam

Nữ

– Trình độ học vấn

 

 

+ Chưa đi học

23,6

65,1

+ Tiểu học

15,2

46,1

+ Trung học cơ sở

9,6

34,9

+ Phổ thông trung học

6,6

32,2

+ Cao đẳng, đại học trở lên

5,7

21,0

– Hoạt động trong 12 tháng trước điều tra

 

 

+ Làm việc

6,5

33,5

+ Không làm việc

17,8

57,8

– Nghề nghiệp

+ Lao động

 

 

có trình độ chuyên môn Kỹ thuật

3,5

21,7

+ Nhân viên văn phòng

5,8

41,5

+ Lao động giản đơn

6,5

32,6

 (x. Nguồn: Sđd, Tổng Cục Thống kê, Tổng điều tra dân số.., Chuyên khảo về hôn nhân…, tr. 21-22).

 

Nhóm tuổi

Chưa vợ/chồng

Có vợ/ chồng

Goá

Ly hôn

Ly thân

 

Không xác định

13-14 

3.666.732

10.338

385

80

105

55

Nam 

1.885.100

3.444

104

20

33

33

Nữ  

1.781.632

6.894

281

60

72

22

15-17

5.098.795

102.435

1.266

784

811

34

Nam 

2.620.219

23.869

343

179

188

19

Nữ

2.478.576

78.566

863

605

623

15

18-19

2.639.274

369.121

2.163

2.550

2.547

2.560

Nam

1.415.360

78.817

473

501

489

1.355

Nữ

1.223.968

291.004

1.690

2.049

2.058

1.205

20-24

3.980.245

2.884.972

16.080

21.395

18.340

4.355

Nam

2.384.731

1.028.895

6.028

13.257

10.783

1.566

Nữ 

1.595.514

1.856.077

13.340

45.679

12.572

2.121

Vào tuổi 19, tỷ lệ này đạt tới 7% cho nam và 25,5% cho nữ. Ta có bảng tỷ lệ Dân số từng kết hôn của tuổi 13-19 theo giới tính, độ tuổi, nơi cư trú và vùng.

Có sự khác biệt đáng kể giữa thành thị và nông thôn: tỷ lệ ở nông thôn cao gấp 2 lần so với thành thị. Vào độ tuổi 19, tỷ trọng này là 3,1% của nam và 13% của nữ ở thành thị, thì ở nông thôn đã lên tới 8,4% của nam và 29,7% của nữ.

 

Tỷ lệ dân số từng kết hôn của tuổi 13-19 chia theo giới tính, độ tuổi, nơi cư trú và vùng

Tuồi

Vùng

13

 

14

15

16

17

18

19

TC

Cả nước

Nam

 

0,1

 

0,2

 

0,3

 

0,8

 

1,7

 

3,0

 

7,0

 

1,6

Nữ

0,2

0,4

1,1

2,4

6,2

14,0

25,5

6,5

Thành thị

Nam

0,1

0,2

0,2

0,3

0,6

1,9

3,1

0,9

Nữ

0,1

0,2

0,8

1,6

3,7

7,4

13,0

3,9

Nông thôn

Nam

0,2

 

0,3

0,4

1,0

1,7

3,6

0,4

1,9

Nữ

0,2

0,5

1,1

2,6

7,0

16,2

29,7

7,3

Tỷ lệ này giữa các vùng rất khác nhau: ở đồng bằng sông Hồng tỷ lệ giữa nam và nữ là 1,9 và 7,3; vùng Đông Bắc là 2,6 và 8,5. Tây Bắc là 7,0 và 13,7; Bắc Trung bộ là 0,6 và 4,2; Duyên Hải Nam Trung bộ là 0,9 và 4,2; Tây Nguyên là 2,2 và 10,5; Đông Nam bộ là 1,1 và 5,4; đồng bằng sông Cửu Long là 2,1 và 7,2.

Nói chung các đồng bào thiểu số vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nguyên kết hôn rất sớm trong khi vùng Bắc Trung bộ lại kết hôn khá muộn. Vào tuổi 19, có đến 28% nam và 45% nữ đã kết hôn. Hơn nữa, tuỳ theo dân tộc tỷ lệ này từ tuổi 13-19 cũng khác nhau, người Hoa thấp nhất: từ 0,7 cho nam và nữ 3,3, tiếp đến là người Kinh: nam 1,0 và nữ 5,7. Người H’Mông có tỷ lệ kết hôn vị thành niên cao nhất: vào tuổi 19, có 58,4% nam và 75,2% nữ đã kết hôn, người Dao: 31,7% nam và 58,9% nữ đã kết hôn. (x. Nguồn: Sđd, Tổng cục Thống kê…, Tổng điều tra… tr.22-30). Ngoài nguyên nhân tập quán phong tục của mỗi dân tộr, việc kết hôn ở tuổi vị thành niên còn do nhiều yếu tố khác tác động như: do thiếu hiểu biết, khác biệt về trình độ học vấn hay tôn giáo, thiếu công ăn việc làm thậm chí thiếu các phương tiện sinh hoạt như điện, ti vi… (x. Bảng so sánh ở trang bên).

Chúng ta ghi nhận tỷ lệ kết hôn ở tuổi vị thành niên của nữ làm việc cao hơn so với nữ không làm việc. Điều này phản ánh nhu cầu thu nhập để giúp gia đình. Nữ có lao động giản đơn thường kết hôn sớm so với nữ có việc làm cần trình độ chuyên môn. Khi người dân có phương tiện sinh hoạt nhất là có điện, có tivi để hiểu biết các thông tin về hôn nhân, gia đình, họ thường ít kết hôn sớm. Tôn giáo cũng ảnh hưởng đến việc kết hôn ở tuổi vị thành niên, đặc biệt đạo Công giáo. Việc kết hôn ở  tuoi vị than h nien thap nhat so vơi cac Ton giaó khac .

2.2. Đường hướng mục vụ gia đình

Sau khi phân tích một vài số liệu thống kê về gia đình Việt Nam, chúng ta tự hỏi mình có thể làm gì để giúp đỡ và làm thăng hoa gia đình Việt Nam với tư cách là con người và là con Thiên Chúa trong tình trạng hiện tại.

Tỷ lệ dân số từng kết hôn ở tuổi 13-19 chia theo giới tính và một số đặc trưng

(x. Nguồn: Sđd, Tổng cục Thống kê… Tổng điều tra… Chuyên khảo về hôn nhân, tr. 31-35).

 

Mục

Nam

Nữ

Số lượng nam

Số lượng nữ

Trình độ học vấn

 

 

 

 

Chưa đi học

7,8

20,2

634

1.786

Tiểu học

3,6

10,4

1.448

3.997

Phổ thông cơ sở

0,8

5,6

802

4.534

Trung học phổ thông trở lên

0,3

1,4

146

586

Theo tôn giáo

Không tôn giáo

 

1,6

 

6,5

 

2.525

 

8.834

Phật giáo

1,7

6,8

248

988

Công giáo

0,8

5,2

102

631

Tin Lành

5,1

13,6

57

143

Cao Đài

1,6

6,9

34

137

Hoạt động trong 12 tháng trước điều tra

Làm việc

4,3

13,2

2.678

8.508

Không làm việc

0,2

2,1

353

2.399

Nghề nghiệp

Lao động

có trình độ chuyên môn

 

 

2,4

 

 

8,8

 

 

7

 

 

31

Nhân viên văn phòng, dịch vụ

4,1

9,7

59

505

Lao động đơn giản

4,6

14,4

2.284

7.173

Sử dụng phương tiện sinh hoạt

Không có điện

 

 

3,5

 

 

10,1

 

 

1.475

 

 

3.945

Có điện không có tivi

1,5

8,2

712

3.069

Có điện có tivi

0,8

4,2

836

3.871

2.2.1. Tình trạng gia đình Việt Nam hiện nay

Nhiều nhà xã hội học đã phân tích kỹ lưỡng tình trạng này. Chúng ta chỉ tóm tắt một vài điểm chính sau đây.

– Về mặt tích cực: nhiều gia đình Việt Nam, cũng giống như hầu hết các gia đình châu Á, vẫn giữ được nề nếp gia phong. Rất gần gũi với giáo lý đức tin, vẫn bảo tồn được các giá trị như lòng hiếu thảo, tình yêu thương, chung thuỷ, việc chăm sóc người già và người bệnh, lòng yêu trẻ và sống hoà thuận trong một đại gia đình có khi 3, 4 thế hệ sống chung với nhau (x. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông huấn Ecclesia in Asia, Giáo Hội tại châu Á, số 46).

Nhờ khoa học phát triển, sức khoẻ và tuổi thọ của từng thành viên được nâng cao, tỉ lệ chết của trẻ sơ sinh giảm. Tiến trình công nghiệp hoa, giúp cho gia đình được hưởng thụ nhiều tiện nghi vật chất hơn như thực phẩm, nước sạch, thuốc men. Những phương tiện truyền thông đại chúng như: sách báo, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, internet giúp cho đời sống gia đình hoà nhập nhanh chóng vào nền văn minh thế giới, nâng cao ý thức dân tộc và nhân loại thay vì sống đơn độc trên đồng ruộng hay bị đóng kín sau luỹ tre làng.

Tiến trình đô thị hoá ở Việt Nam tuy còn chậm nhưng đây là tiến trình tự nhiên của nền văn minh đô thị hiện nay. Người dân ở nông thôn đổ xô về thành thị vì ở đó có nhiều cơ may để học hành, để kiếm được việc làm, để bảo đảm cuộc sống ổn định thay vì quá lệ thuộc vào thời tiết trong nghề nông, ngư, nhất là đối với những người nghèo, ít vốn, ít học.

Về phương diện tinh thần, chúng ta ghi nhận các thành viên trong gia đình Việt Nam có một ý thức sống động hơn về tự do cá nhân, một sự chú ý nhiều hơn đến phẩm chất của các mối tương quan liên hệ trong hôn nhân thay vì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” như thời trước. Người phụ nữ Việt Nam ý thức hơn về quyền bình đẳng trong hôn nhân và trong xã hội để tích cực học hành, làm việc thay vì sống bám vào người đàn ông. Vợ chồng ý thức hơn về trách nhiệm trong việc sinh sản nên số con cũng ít hơn trong các gia đình và con cái được nuôi dạy kỹ lưỡng hơn nhờ hiểu biết nhiều hơn về tâm sinh lý con người (x. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 6).

– Về mặt tiêu cực

Tuy nhiên, hình ảnh đẹp về gia đình Việt Nam đang có nguy cơ mờ nhạt và có những dấu hiệu rạn nứt hoặc đổ vỡ vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Nguyên nhân sâu xa nhất vẫn là quan niệm sai lầm về tự do của cá nhân và sự độc lập của hai vợ chồng với nhau trước những quyến rũ của nền văn minh hưởng thụ luôn mời gọi con người thoả mãn mọi nhu cầu của cuộc sống. Sự sai lầm này bắt nguồn từ việc chối bỏ những giá trị truyền thống cao đẹp mời gọi tôn trọng sự sống và lòng chung thuỷ trong hôn nhân để chiều theo những dục vọng ích kỷ. Qua số thanh niên nam nữ có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân ngày càng nhiều, qua số vụ phá thai hàng triệu ca mỗi năm trong cả nước, qua số vụ ly dị càng ngày càng tăng, số người dùng thuốc người thai và triệt sản ngày càng nhiều (năm 2002 chỉ riêng thành phố HCM có 110.915 vụ phá thai so với 91.312 người sinh con. Số người dùng thuốc ngừa thai cao gấp 5 lần so với vài năm trước đây. Năm 1995: 19538; năm 2002: 108.884 người. Cục Thống kê TP.HCM, Niên Giám Thống kê 2002, tháng 4-2003 tr.231).

Quan niệm sai lầm tự do này có thể bắt nguồn từ những sách báo, phim ảnh cổ võ cuộc sống thoải mái dễ dãi của các nước phương Tây được phổ biến chính thức qua các phương tiện truyền thông xã hội như phim ảnh đồi truỵ được phổ biến lén lút hoặc qua mạng internet, thậm chí qua những khẩu hiệu được trưng bày ở nhiều nơi “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà không được giải thích cho đúng để áp dụng vào đời sống đạo đức cá nhân.

Tiến trình đô thị hoá với số người đa số nghèo khổ thất học ồ ạt đổ về các thành phố lớn dẫn đến tình trạng cha mẹ phải sống xa con cái, nền giáo dục cơ bản không được lưu tâm đúng mức. Một số người trẻ tìm đến những nơi xa lạ, làm việc dễ bị bóc lột sức lao động, bị khai thác và lạm dụng tình dục, vướng vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện ngập, mãi dâm, băng đảng bạo lực, một số trẻ em sống lang thang trên đường phố. Tiến trình đô thị hoá và công nghiệp hoá thúc đẩy con người sống trong các thành thị bị giới hạn tầm mắt với những nhà cửa hình hộp chồng chất lên nhau, không còn nhìn thấy được đồng ruộng bao la, biển rộng, sông dài để mở rộng tâm hồn, hoà nhịp sống thanh thoát với thiên nhiên. Lao động nơi đây theo một nhịp vội vàng hối hả vì được tính theo năng suất, sản phẩm làm ra nên con người thường xuyên bị căng thẳng dẫn tới các khủng hoảng tâm lý.

Đối với 75% người dân sống ở nông thôn, tiến trình công nghiệp và đô thị hoá cũng tác động sâu sắc đến đời sống yên lành trước đây. Họ hối hả đổi vật nuôi cây trồng theo quy hoạch kinh tế từng vùng để có nông sản, ngư sản bán ra. Muốn thế họ phải học hỏi nhiều, nhưng do trình độ văn hoá thấp nên thường không đáp ứng yêu cầu đòi hỏi, do đó họ khá căng thẳng. Nhiều vùng đất ruộng do quy hoạch đột ngột có giá trị cao, người nông dân bán đất và có một số tiền lớn để tiêu xài thay vì đầu tư vào những việc hữu ích. Các phương tiện truyền thông, nhất là truyền hình mà mỗi ngày trung bình họ xem từ 2 đến 3 giờ, đã khiến họ bị cuốn hút theo đời sống hưổng thụ trong phim, giảm thiểu đức tính cần cù kiên nhẫn chịu đựng, chịu khó của người Việt Nam trước đây. Họ muốn thoát khỏi cảnh nghèo túng đói khổ bằng bất cứ cách nào nên đã bị lừa lọc để lấy chồng Đài Loan, Trung Quốc, mãi dâm bên Campuchia hay trở thành những tiếp viên của các nhà hàng, tiệm karaoke dày đặc trong các thành phố lớn, phục vụ cho các hoạt động không lành mạnh của ngành du lịch.

Tóm lại hoàn cảnh gia đình Việt Nam hiện nay như đang sống trong sự pha trộn giữa bóng tối và ánh sáng như Đức Thánh Cha đã nhận định về tình trạng chung của các gia đình trên thế giới (x. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đã nhận định về tình trạng chung của các gia đình trên thế giới Tông huấn Familiaris Consortio, số 6).

2.2.2. Đường hướng mục vụ gia đình

Để xoá đi những bóng tối nguy hiểm cho đời sống gia đình chúng tôi nghĩ rằng cần phải thắp sáng lên ngọn lửa tình yêu chân thành đối với Thiên Chúa và con người như Đức Giêsu đã thể hiện trong đời sống gia đình của mình vì Ngài là ánh sáng của trần gian (Ga 9,5). Đấy là đường hướng mục vụ về gia đình trong tình trạng hiện nay. Đường hướng này sẽ được thể hiện qua những hoạt động cụ thể sau đây:

Giáo dục cá nhân: nhằm vào các trẻ em thanh thiếu niên và ngay cả người lớn về tự do chân chính, công bình đích thật và tình yêu chân thành, quảng đại đối với mọi người, nhất là đối với người nghèo như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cập đến trong Tông huấn Familiaris Consortio, số 37).

Trong một đất nước mà trẻ em đã từng được giáo dục theo đường hướng duy vật vô thần, thượng tôn luật pháp, cho những gì ngược với vật chất đều là mê tín, là duy tâm, cần phải phá bỏ và kết quả dẫn đến tình trạng xã hội chạy theo hưởng thụ ích kỷ, coi lừa lọc gian dối trong buôn bán, học hành, thi cử như một chuyện bình thường, coi tham nhũng, hối lộ là việc tự nhiên, thì việc giáo dục lại con người để nhận ra những giá trị nhân bản của sự sống, của tình yêu là việc quan trọng hơn cả. Những giá trị ấy ẩn sâu trong xác tín: “Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu” (x. 1 Ga 4,8) và Đức Giêsu Kitô là con người hoàn hảo mà mọi người, mọi vật phải hướng tới. (x. Công đồng Vatican II, Gauduim et Spes, số 22).

Để thực hiện được sự giáo dục này, các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Công giáo cần biết tận dụng các phương tiện truyền thông xã hội để phổ biến sứ điệp Kitô giáo và giáo huấn chân chính của Giáo hội một cách sáng tạo hấp dẫn, mang đậm tính văn hoá và truyền thống dân tộc.

Các phụ huynh nên dạy con em mình biết sử dụng các phương tiện ấy một cách hữu hiệu và đầy trách nhiệm thay vì chỉ để giải trí cho qua thời giờ và chiều theo những khoái cảm thấp hèn.

Đào tạo nhân sự về mục vụ gia đình

Ngoài việc giáo dục cá nhân, Giáo hội nên chú tâm đến việc đào tạo nhân sự về mục vụ gia đình qua việc tổ chức các lớp giáo lý hôn nhân để giúp cho những người sắp thành hôn hay đã thành hôn, cho cha mẹ các nhân viên hội đồng mục vụ giáo xứ, các đoàn viên công giáo tiến hành biết trách nhiệm cao cả của họ trong gia đình.

Người Việt Nam rất cần sự liên đới và cộng tác với nhau để xoá đi những uẩn ức và mặc cảm đơn độc thiếu tin tưởng thời trước. Muốn thế các thành viên phải học và thực hành về một tình yêu dệt bằng mối quan tâm chân thành và tận tâm phục vụ cách vô vị lợi đối với người khác, đặc biệt là đối với những người nghèo nhất.

Gia đình Kitô hữu không thể chỉ đóng kín trong những sinh hoạt riêng tư, nhưng cần mở rộng với mọi gia đình chung quanh, để kính trọng yêu thương, trao đổi học hỏi và quan tâm giúp đỡ, góp phần phát triển nền văn minh tình thương (x. Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam tháng 10-2002, Bản tin Hiệp Thông số 15-,12- 2002, tr.20)

Gia đình này còn được mở rộng đến vũ trụ vật chất với muôn loài muôn vật. Tất cả đang tích cực đóng góp vào sự sống, hạnh phúc và tình yêu chung vì cùng là anh em với nhau trong gia đình vũ trụ. Chúng ta đều ý thức rằng vũ trụ chính là thân xác to lớn của con người vì mỗi ngày ta thở được khí ôxy là nhờ những cây cối toả ra cho ta, và cây cối lại thu nhận được khí carbonic do con người thải ra để biến đổi trong cơ thể chúng. Mỗi ngày, qua bữa ăn những rau cỏ, tôm cá hy sinh sự sống cho ta, trở thành “một xương một thịt” nơi ta, thân thiết có khi hơn cả tình chồng vợ (x.St 2,24). Xác định được vật chất đóng góp vào sự sống kỳ diệu, chúng ta mới vượt qua thái độ tôn thờ vật chất đến độ nô lệ cho vật chất và trở thành anh em của muôn loài, ta sẽ vượt thoát được những thái độ thay đổi thất thường “sáng nắng chiều mưa” biết chọn nếp sống giản dị khó nghèo theo tinh thần Kitô giáo để nhận ra con người còn cao quý gấp ngàn lần vật chất và tôn trọng phẩm giá của họ. Cuối cùng con người chỉ đạt được hạnh phúc và sự sống đích thực khi nhận ra người Cha chung của con người và vạn vật chính là Thiên Chúa của tình thương và hết lòng tôn kính Người.

Kết luận

Sau khi tìm hiểu vài nét về hoàn cảnh gia đình Việt Nam xưa và nay, một câu hỏi đặt ra cho chúng ta là nếu gia đình Việt Nam cứ xuôi theo đà tiến của xã hội văn minh hiện đại, nó sẽ đi về đâu? Có người ưu tư lo lắng cho tương lai của gia đình, dân tộc. Có người lạc quan và hy vọng vào tiền đồ của quê hương. Chúng tôi xin đồng cảm với mọi người vì không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng người môn đệ Chúa Kitô. Nhưng điều chúng tôi xác tín là nếu ai muốn biến gia đình thành một tổ ấm hạnh phúc, xin họ hãy bắt đầu yêu mến và thực hiện ngay những hành động tốt đẹp cho những người trong gia đình mình, rồi họ sẽ cảm nhận hạnh phúc gia đình luôn ở trong tầm tay của từng người.

Chăm sóc thành viên gia đình