Đầu tư công nghệ cao vào chọn tạo giống đậu nành được xem là khâu đột phá để gỡ thế bí của ngành này trong nhiều năm qua.
Tạo bước đột phá cho đậu nành
Đầu tư công nghệ cao vào chọn tạo giống đậu nành được xem là khâu đột phá để gỡ thế bí của ngành này trong nhiều năm qua.
Bà Vũ Thị Hồng Hạnh ở xã Đắc Đrông (Cư Jút, Đắk Nông) có kinh nghiệm trồng đậu nành hơn chục năm cho biết: “Tôi cũng như nhiều người dân ở đây mấy năm gần đây không còn mặn mà với cây đậu nành nữa vì năng suất thấp do giống thoái hoá và đầu ra không ổn định, giá bán không cao. Cây đậu nành thật sự không có khả năng cạnh tranh với các loại cây trồng khác. Nếu muốn phát triển cây đậu nành, thứ nhất phải có giống tốt, thứ hai phải có đầu ra ổn định, có doanh nghiệp bao tiêu”.
“Thế bí”
Mới đây, tại buổi hội thảo khoa học quốc tế “Ứng dụng công nghệ cao và đồng bộ cho bảo toàn và phát triển đậu nành Tây nguyên” được tổ chức tại Cư Jút, Đắk Nông ngày 6.11.2015, ông Ma Quang Trung, Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), cũng thừa nhận vấn đề giống vẫn đang là “thế bí” của ngành nông nghiệp đậu nành. Thực tế cho thấy, năng suất đậu nành những năm gần đây ngày càng giảm do thoái hoá giống dẫn tới diện tích trồng đậu nành cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các viện nghiên cứu của VN đã nghiên cứu được một số giống có năng suất khoảng 2 tấn/ha nhưng khi trồng thực tế thì hiệu quả lại không như mong muốn. “Chúng tôi bị rơi vào thế bí vì chưa có bộ giống tốt. Trong khi đó, đậu nành được ngành nông nghiệp xác định là một trong 4 loại cây trồng chính của quốc gia”, ông Trung nói.
Cũng trong buổi hội thảo nói trên, TS Vương Đình Trị, Trung tâm nghiên cứu công nghệ sinh học đậu nành quốc gia Hoa Kỳ (NCSB), cho biết: “Đậu nành là một loại cây rất dễ trồng nhưng nó lại đặc biệt ở chỗ rất mẫn cảm nên phải có giống riêng phù hợp cho từng vùng sinh thái. Chúng ta không thể đem giống ở nơi này trồng nơi khác được. Cụ thể như ở Mỹ, họ có giống tốt nhưng chúng ta không thể đem giống đó về Việt Nam trồng được. Chúng ta chỉ có thể sử dụng giống tốt của nước ngoài trên cơ sở là nguồn gien quý phục vụ công tác lai tạo giống. Chính vì vậy, Việt Nam muốn phát triển cây đậu nành phải bắt đầu từ khâu nghiên cứu giống”.
Giống tốt sẽ giúp đậu nành tăng chất lượng và năng suất
Tạo bước đột phá nhờ áp dụng công nghệ cao và giải pháp đồng bộ
Là nhà sản xuất sữa đậu nành lớn nhất tại Việt Nam với hơn 83% thị phần (theo số liệu nghiên cứu thị trường của The Nielsen Việt Nam – tháng 8.2015), hằng năm Công ty sữa đậu nành Việt Nam Vinasoy tiêu thụ khoảng 20.000 tấn hạt đậu nành, trong đó 80% là đậu nành trong nước tại Tây nguyên. “Tiêu chí của doanh nghiệp chúng tôi là sử dụng nguyên liệu đậu nành thiên nhiên 100% không biến đổi gien, chúng tôi ưu tiên dùng nguồn đậu nành trong nước vì nó “tươi” hơn sản phẩm nhập khẩu. Hạt đậu có tươi thì mới làm ra sản phẩm thơm ngon, chất lượng cao nhất. Bên cạnh đó còn một số đặc tính nổi trội của đậu nành Việt Nam là khi làm ra sản phẩm có mùi thơm, vị tự nhiên, phù hợp với khẩu vị của người tiêu dùng Việt”, ông Ngô Văn Tụ, Giám đốc Vinasoy, nói.
Nhận thức sâu sắc được rằng phải có nguyên liệu tốt mới làm ra được sản phẩm chất lượng cao, cuối năm 2013 Trung tâm nghiên cứu ứng dụng đậu nành Vinasoy ra đời. Đến nay, trung tâm đã sưu tập được khoảng 300 giống đậu nành bản địa của VN và chọn thuần được giống đậu nành Cư Jút hoa trắng với nhiều phẩm chất quý, năng suất tăng từ 10 – 15% so với giống thường của địa phương. Từ đầu năm 2015 giống này đã được đưa vào trồng trên quy mô khoảng 20 ha tại hai huyện Cư Jút, Đăk Mil để nhân giống. Bên cạnh việc chọn thuần giống địa phương, để nâng cao chất lượng đậu nành trong nước, đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá sản phẩm của Vinasoy, suốt 2 năm qua trung tâm cũng tập trung nghiên cứu áp dụng các công nghệ cao (di truyền phân tử) vào công tác chọn và lai tạo giống, với sự hỗ trợ từ đối tác chiến lược là NCSB.
Nhờ việc áp dụng kỹ thuật hiện đại này, dự kiến đến năm 2017, trung tâm sẽ cho ra đời giống đậu nành mới với nhiều phẩm chất tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng Tây nguyên và đưa vào trồng đại trà vào năm 2018. Giống mới này kết hợp với giải pháp đồng bộ về hệ thống canh tác và những ứng dụng phân sinh học, phân hữu cơ sẽ mang lại năng suất khoảng 3 tấn/ha, gấp đôi hiện tại và tương đương với năng suất đậu nành bình quân trên thế giới.
Sẽ bắt kịp trình độ thế giới
GS-TS Henry Thiện Nguyễn, Giám đốc NCSB, chuyên gia tư vấn cao cấp trong chương trình chọn tạo giống của Vinasoy cho biết: “Làm giống là khâu mất rất nhiều thời gian, trung bình 7 – 8 năm mới có thể cho ra đời một giống mới. Nhưng hiện nay với việc áp dụng kỹ thuật phân tử thì thời gian rút ngắn được một nửa. Có thể xác nhận rằng, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng đậu nành Vinasoy là trung tâm nghiên cứu đậu nành hiện đại hàng đầu VN nhờ được đầu tư bài bản không thua gì các trung tâm hàng đầu thế giới hiện nay. Việc trung tâm đang làm là đúng hướng và tôi nghĩ rằng khoảng 10 năm nữa chúng ta sẽ bắt kịp với trình độ phát triển cây đậu nành của thế giới”.