09/07/2025

Chúa Nhật XIII TN C 2025. Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Tông đồ: “Cung nhau loan báo Tin Mừng”

Mừng kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng ta cùng tạ ơn Chúa đã kết nối hai vị và tất cả trong tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Giêsu Kitô để “ta sống, nhưng không còn phải là ta, mà là Đức Kitô sống trong ta”. 

Chúa Nhật XIII TN C 2025

Lễ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Tông đồ

“Cùng nhau loan báo Tin Mừng”

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK

 

Lời mở

Hôm nay, Giáo Hội mừng kính trọng thể hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Đây là hai vị thánh đặc biệt, dù không giống nhau về tính khí và phạm vi hoạt động, nhưng đã liên kết với nhau về lòng tin và tình yêu đối với Chúa Giêsu, và cùng đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô, tại Rôma, có lẽ thánh Phêrô vào năm 64 và thánh Phaolô vào năm 67. Chính nhờ hai vị mà chúng ta mới biết tin yêu Chúa Giêsu và thừa hưởng Nước Trời. Chúa Giêsu đã trao chìa khoá Nước Trời cho thánh Phêrô để ngài mở cửa cho ta đi vào con đường sự thật và sự sống là chính Chúa Giêsu. Còn thánh Phaolô, qua những lời giáo huấn của ngài trong các thư gửi các giáo đoàn, lại chỉ dạy ta Chúa Giêsu thật sự là ai và ta phải đi theo con đường đó như thế nào.

Ngoài Mẹ Maria và thánh Giuse, có lẽ hai vị thánh mà chúng ta mắc nợ nhiều nhất và cần phải tỏ lòng biết ơn hơn các thánh khác, chính là hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô.

1. Thánh Phêrô

Phêrô là tên được Chúa Giêsu đặt cho ông Simon, có nghĩa là “đá”, do tiếng Hy Lạp là Petros, tiếng Aram là Kêpha (x. Ga 1,42). Ông là dân chài chất phác ở miền biển Galilê. Sau khi nghe anh mình là Anrê, người từng đi theo làm môn đệ ông Gioan Tẩy Giả, nói về Chúa Giêsu và gặp được Chúa Giêsu, ông vẫn làm nghề chài lưới. Ông được dự tiệc cưới tại Cana và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu biểu lộ thần tính của Người.

Chúa Giêsu đã mượn thuyền của ông để giảng dạy cho dân chúng ngồi trên bờ, sau bài giảng, Người nói với hai anh em ông chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá, hai ông vâng lệnh dù cả đêm đã không bắt được gì. Các ông bắt được nhiều cá đến nỗi rách cả lưới và thuyền nặng gần chìm. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô cảm nhận được thân phận tội lỗi của mình, nhưng Chúa Giêsu bảo ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới chinh phục con người”. Từ đó, hai anh em ông đã từ bỏ tất cả: gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa Giêsu. Các ông là những môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu chọn vào số 12 tông đồ.

Hằng ngày các ông đi theo Đức Giêsu, nghe lời giảng dạy của Người về Nước Trời, tận mắt thấy các phép lạ Người làm để chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, hoá bánh ra nhiều, tha thứ tội lỗi, làm cho kẻ chết sống lại. Các ông dần dần nhận ra Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, và chỉ có Người mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Ga, 6,67-68). Ông Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng niềm tin đó và được Chúa Giêsu trao quyền lãnh đạo cho ông: “Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực âm phủ sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,13-19). Phêrô là vị giáo hoàng đầu tiên của Giáo hội Công giáo. Sau khi Chúa lên trời ngài đã thực hiện vai trò lãnh đạo là “chăn dắt các chiên con và chiên mẹ trong đàn chiên của Chúa” (x. Ga 21,16-17).

Khi đã nhận được ân huệ của Chúa Thánh Thần, Phêrô hướng toàn bộ đời mình để rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh bằng những phép lạ phi thường. Ngài đi khắp xứ Giuđêa, lập giáo đoàn ở Antiokia, sang đến thủ đô của đế quốc Rôma và biến nơi đây thành trung tâm của Kitô giáo để từ đây Tin Mừng được loan báo cho mọi dân tộc.

Vì thế, nhờ lòng tin yêu của thánh Phêrô dành trọn vẹn cho Chúa Giêsu mà chúng ta được biết Thiên Chúa Ba Ngôi và nhận được ơn cứu độ. Nhờ hoạt động lãnh đạo Hội Thánh của ngài mà chúng ta được trở thành phần tử của Giáo Hội. Nhờ sự chuyển cầu của ngài mà chúng ta tiếp tục công trình cứu độ là cùng nhau loan báo Tin Mừng cho muôn loài.

2. Thánh Phaolô

Tên thật của ông là Saolô, sau khi trở lại đổi tên là Phaolô. Ngài là người Do Thái, sinh tại thành Tarsê, xứ Kilikia, miền Nam Tiểu Á, xuất thân từ một gia đình Biệt Phái danh giá và là công dân Rôma (x. Cv 22,3). Ngài về sống tại Giêrusalem khoảng một năm sau khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Ngài được giáo dục bởi người thầy Biệt Phái nổi tiếng tên là Gamalien, giữ luật nghiêm ngặt, thông minh và đầy nhiệt tâm. Ngài trở thành một thủ lãnh Biệt Phái cuồng tín và được các thượng tế cho phép bắt bớ những ai theo Chúa Giêsu và giải về Giêrusalem.

Đang trên đường đến Đamas, ngài bị một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ khiến ngài ngã từ lưng ngựa xuống đất và không còn trông thấy gì nữa. Ngài nghe tiếng nói: “Saolô, Saolô, sao ngươi bắt bớ ta?”. Ngài hỏi: “Thưa ông, ông là ai?”- “Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ”. Sau khi được ông Khanania, người môn đệ Chúa Giêsu, chữa lành cho đôi mắt và truyền lại những điều Chúa muốn, Phaolô đã chịu phép rửa và được tràn đầy Thánh Thần. Rồi ông lập tức sang Ả Rập để suy nghĩ và cầu nguyện trong vòng hai năm (x. Gl 1,17). Nhờ đó ông đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Giêsu và sống kết hợp với Người.

Phaolô trở lại Đamas và rao giảng tại các hội đường Do Thái rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, khiến các người Do Thái muốn giết ông. Ba năm sau, ngài mới lên Giêrusalem diện kiến với tông đồ Phêrô và các tông đồ khác. Sau đó, ngài trở về sống tại Tarsê 10 năm (34-44). Đây là thời gian Phaolô tìm tòi, suy nghĩ về những gì Chúa Giêsu mạc khải trực tiếp cho ông và dạy dỗ ông để tổng hợp thành những điểm giáo lý cơ bản cho đời sống tín hữu và được trình bày trong 14 thư gửi các giáo đoàn trong bộ sách Tân Ước mà chúng ta vẫn thường đọc trong các thánh lễ. Tất cả chúng ta mắc nợ ngài về công trình này vì nó giúp ta đi vào con đường sự thật và sự sống của Chúa Giêsu một cách rõ ràng và cụ thể trong những biến cố và giai đoạn khác nhau của đời sống.

Thánh Phaolô còn được tôn phong là tông đồ của dân ngoại, không thuộc Do Thái giáo, vì trong suốt hơn 20 năm còn lại của cuộc đời (44-67), từ Antiokia, ngài cùng với thánh Barnaba và các bạn đi khắp miền Tiểu Á để loan báo Tin Mừng cho nuôn dân và thiết lập giáo đoàn ở nhiều nơi. Ba cuộc hành trình truyền giáo của thánh Phaolô là những chuyến đi quan trọng trong việc truyền bá Kitô giáo. Các cuộc hành trình này bắt đầu và kết thúc tại thành phố Antiokia (Antioch), và sau đó là hành trình đến Rôma để làm chứng cho tình yêu vĩnh hằng của ngài với Chúa Giêsu. Chính nhờ ngài trình bày rõ ràng giáo lý tại công đồng chung đầu tiên ở Giêrusalem mà các Kitô hữu không bị buộc chịu phép cắt bì theo đạo Do Thái (x. Cv 15,5-21). Đây cũng là điểm chúng ta mang ơn ngài vì chúng ta là những lương dân so với người Do Thái.

Lời kết

Mừng kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, chúng ta cùng tạ ơn Chúa đã kết nối hai vị và tất cả trong tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Giêsu Kitô để “ta sống, nhưng không còn phải là ta, mà là Đức Kitô sống trong ta”. 

HKK