Chúa Nhật II PS Năm B – 2024 – CN về Lòng Thương xót của Thiên Chúa

Chúng ta hãy ca ngợi và cảm tạ lòng Chúa xót thương đã biến đổi tất cả những vật chất, đau khổ, bệnh tật nơi thân xác ta thành các dấu chỉ của tình yêu cứu độ như những vết thương trên thân thể sáng láng của Đấng Phục Sinh.

Chúa Nhật II PS Năm B – 2024 – CN về Lòng Thương xót của Thiên Chúa

Quyền đòi cảm nghiệm để tin

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK

Lời mở

Chúa Nhật II Phục Sinh luôn trình bày các điều kiện căn bản cho những ai muốn cảm nghiệm được sự sống diệu kỳ của Đấng Phục Sinh. Điều kiện đầu tiên là tín hữu đó cần có dồi dào ân sủng của Chúa Thánh Thần vì Chúa Thánh Thần chính là Thần Khí Sự Thật sẽ soi sáng tâm trí con người và làm chứng về Chúa Phục Sinh như thánh Gioan trong Bài đọc II (x. 1Ga 5,1-6) và Tin Mừng xác định (Ga 20,19-31). Điều kiện thứ hai là tín hữu đó biểu lộ lòng tin vào Đấng Phục Sinh bằng đời sống bác ái, đồng tâm nhất trí với nhau như Bài đọc I (Cv 4,32-35) diễn tả.

Tuy nhiên, rất nhiều người tín hữu hiện nay chưa cảm nghiệm được sự sống diệu kỳ và rất đông người khác không tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, vì họ không cảm nghiệm được các điều kiện đó trong cộng đồng tín hữu Kitô. Họ có quyền đòi hỏi cảm nghiệm để tin như ông Tôma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25).

1. Tại sao con người lại không tin

Đòi hỏi của ông Tôma hợp lý, bởi vì cộng đồng môn đệ và tông đồ đang thuyết phục ông tin rằng Đức Giêsu đã sống lại và họ nói đã tận mắt thấy Người. Nhưng cách sống của họ lại đi ngược với những gì họ nói. Nếu quả thật Đức Giêsu sống lại, tại sao họ “vẫn đóng kín các cửa vì sợ người Do Thái” (x. Ga 20,26), thay vì tràn đầy niềm vui, bình an và can đảm mở tung cửa đi loan báo Chúa Phục Sinh. Do đó ông đòi quyền cảm nghiệm rồi mới tin.

Ngày 03/07: Thánh Tôma, Tông đồ - Lễ kính (Ga 20,24-29)

Đòi hỏi của Tôma cũng là đòi hỏi hợp lý của con người thời nay trước thái độ sống đi ngược với Tin Mừng của nhiều cộng đồng tín hữu. Thậm chí ngay cả một số tín hữu đã tin vào Đức Giêsu cũng bỏ đạo vì không cảm nghiệm được hai điều kiện trên đây.

Bằng chứng là nhiều nhà thờ trống rỗng tín hữu, trong khi các sân vận động đầy ắp những người đến giải trí cuối tuần. Các buổi cầu kinh chỉ có ít người già, còn giới trẻ lại vắng bóng. Các chủng viện, dòng tu chẳng còn mấy người gia nhập. Ở Hoa Kỳ có hàng trăm chủng viện, tu viện đóng cửa và vì thế nhiều linh mục Ấn Độ, Nigeria đến thay. Ở Nigeria có vài chủng viện với cả ngàn chủng sinh được “đào tạo” để sang phục vụ ở Hoa Kỳ.

Chúng ta hỏi tại sao điều đó lại xảy ra và cần phải làm gì để thoát khỏi tình trạng này?

Lý do đầu tiên là con người không đón nhận được Thần Khí Sự Thật mà Đức Giêsu thổi trên các tông đồ để thần hoá họ. Họ không phát huy được các ân huệ của Thánh Thần như các tông đồ xưa để loan báo tin mừng Chúa Phục Sinh và làm các dấu lạ như chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, thậm chí cho người chết sống lại như hai tông đồ Phêrô và Phaolô trong sách Công vụ Tông đồ (x. Mc 16,15-22).

Rất nhiều tín hữu đã từng chịu phép Rửa, từng đón nhận Mình Máu Chúa Kitô, nhưng không nhận được Thần Khí Sự Thật. Thánh Gioan nói rõ cho chúng ta 3 chứng cứ đó: “Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến nhờ nước và máu mà chính Thần Khí là chứng nhân và Thần Khí là sự thật ” (x. 1Ga 5,6). Điều này càng rõ ràng hơn trong thời đại chúng ta, khi con người sùng bái vật chất và tin tưởng hoàn toàn vào khoa học sẽ giải quyết tất cả những vấn nạn, khó khăn của đời sống con người, nên họ không tin vào Đấng Phục Sinh vì họ không nhận ra được sự thật về con người và về cả Thiên Chúa.

Lý do thứ hai là chính người tín hữu chúng ta cũng không theo dõi những tiến bộ của khoa học để giúp anh chị em mình, nhất là các bạn trẻ, khám phá ra sự hiện diện của Đấng Phục Sinh và giá trị cao cả của con người. Khi con người khám phá ra vũ trụ vô cùng bao la, vì sau vụ nổ Big Bang, có hàng trăm ngàn thiên hà khác nhau, mỗi thiên hà có cả trăm triệu ngôi sao như mặt trời và trái đất mình sống chỉ nhỏ như một hạt cát trong sa mạc. Vì thế người ta cảm thấy con người hết sức nhỏ bé và hầu như vô nghĩa trong vũ trụ bao la này. Họ không nhận ra sự thật về con người cao quý trên trái đất và cả trong vũ trụ này.

Hơn nữa, khi con người thấy sự sống của mình bị đe doạ, hàng chục triệu người chết vì bom đạn vô tình trong hai cuộc thế chiến và hiện nay các cuộc xung đột ở dải Gaza, ở Ucraina vẫn đang tiếp diễn, thì người ta thấy đời mình thật sự vô nghĩa. Dù có học hành giỏi giang đến đâu, dù có thu tích của cải giàu sang đến mấy, nhưng chiến tranh hạt nhân sẽ phá huỷ tất cả. Vậy thì cần gì học hành, làm việc! Hãy cứ sống giây phút hiện tại để thoả mãn những đòi hỏi tự nhiên của đời sống. Đó là chủ nghĩa hiện sinh mà nhiều người đang theo đuổi, nhất là các bạn trẻ. Họ không nhận ra sự thật của các giá trị tinh thần như tình yêu, tri thức, niềm vui, hạnh phúc và chân thiện mỹ trong đời sống hằng ngày nên không cảm nghiệm được sự hiện diện của Đấng Phục Sinh.

Trên kênh Youtube hiện nay đang phổ biến các video kể về loài người đầu tiên xuất hiện ra sao. Các nhà làm phim cho hàng trăm diễn viên mặc những bộ quần áo lông thú của các loài khỉ. Các diễn viên cũng lấy đá đập các hạt dẻ để lấy nhân làm thức ăn. Họ muốn diễn lại giả thuyết tiến hoá ngẫu nhiên của vất chất đi từ vô cơ đến hữu cơ, từ các sinh vật hạ đẳng đến các loài khỉ rồi cuối cùng đến con người. Nhưng các nhà làm phim đã quên rằng giả thuyết này của Darwin đã hoàn toàn bị loại bỏ bởi những khám phá của chính khoa học về con người trong khoảng 20 năm gần đây.

Bộ não của các loài khỉ chỉ chứa dung tích từ 300-500 phân khối, trong khi bộ não của người có từ 1.100-1.700 phân khối nên không thể có các con khỉ với cái đầu dẹt tự nhiên trở thành người tinh khôn được (x. Bs Alice Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y học, 2017, tr.012-015).

Hơn nữa, việc khám phá ra ADN trong 23 đôi nhiễm sắc thể có tới 3 tỉ yếu tố được sắp đặt đúng theo trật tự thì mới thành con người hiện đại (Homo Sapiens) chứng tỏ vật chất không thể nào tự tiến hoá. Quả chuối có ADN giống con người đến 1,5 tỉ yếu tố. Con tinh tinh có ADN giống con người đến 95% nhưng chưa có con nào tự nhiên biến thành người trong mấy chục triệu năm nay (x. sđd, A.Roberts, tr.018). Đấy là sự thật của khoa học để nói cho ta tin vào Đấng Tạo Hoá dựng nên tất cả, nhất là cho con người có tinh thần vượt lên khỏi vật chất. Đấng đó còn yêu thương hơn nữa nên cho Con của Ngài chịu chết để đền tội lỗi của ta, rồi ban Thánh Thần với bao ân sủng để biến con người trở thành Thiên Chúa như Ngài nếu thở được thần khí của Đấng Phục Sinh. Vì thế, con người không chỉ là độc đáo trên trái đất mà còn trong cả vũ trụ này.

Đó là những bằng chứng của tình yêu và lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa dành cho con người. Chúng ta hãy ca ngợi và cảm tạ lòng Chúa xót thương đã biến đổi tất cả những vật chất, đau khổ, bệnh tật nơi thân xác ta thành các dấu chỉ của tình yêu cứu độ như những vết thương trên thân thể sáng láng của Đấng Phục Sinh. Để khi con người thời nay nhìn vào từng người chúng ta, cũng như vào cộng đồng chúng ta, họ thấy rõ được những bằng chứng của tình yêu siêu việt của Thiên Chúa và không cần phải đòi phải cảm nghiệm rồi mới tin như ông Tôma.

Lời kết

Cầu chúc anh chị em trở thành những chứng nhân đầy tràn Thần Khí Sự Thật của Đấng Phục Sinh. Amen.