Đó là cuốn “Từ điển chính tả tiếng Việt” (PGS-TS Hà Quang Năng chủ biên – ThS Hà Thị Quế Hương, NXB ĐHQG Hà Nội – 2017). Sách có 718 trang, khổ 14,5 x 20,5 cm, in 5.000 cuốn, giá bìa 185.000 đồng; đơn vị liên kết và phát hành: Công ty TNHH MTV TM – DV Văn hóa Minh Long.

Mặc dù được nhóm tác giả biên soạn khá công phu nhưng sách vẫn mắc nhiều sai sót, nhầm lẫn rất khó chấp nhận. Ví dụ: nhầm lẫn S với X; X với S; không phân biệt được D hay GI; TR hay CH; N hay NG; IN hay INH, C hay Q, IU hay ƯU, R hay GI, R hay D… Nhầm lẫn giữa cách viết đã từng tồn tại, với chuẩn chính tả hiện hành; giữa từ đồng nghĩa với từ có hai dạng chính tả…

Bìa cuốn “Từ điển chính tả tiếng Việt” có nhiều sai sót

Sau đây là một số ví dụ:

A. Sai chính tả do không phân biệt được sự khác nhau giữa phát âm và chữ viết; không hiểu nghĩa từ nguyên hoặc chưa thật sự nhuần nhuyễn về tiếng Việt (nội dung in đậm trong ngoặc kép, sau số mục là nguyên văn của từ điển. Phần xuống dòng là trao đổi của chúng tôi):

1. “BÀN: bàn hoàn (tv. bàng hoàng)”.

Không phải “bàn hoàn” “tv” (thường viết) là “bàng hoàng”. Đây là hai từ Việt gốc Hán có tự hình và nghĩa khác nhau. Từ điển tiếng Việt của Vietlex (Vietlex): “bàn hoàn • 盤桓 đg. 1 [cũ, vch] quấn quýt không rời; 2 [cũ, vch] nghĩ quanh quẩn không dứt”; “bàng hoàng • 徬徨 t. ngẩn người ra, choáng váng đến mức như không còn ý thức được gì nữa”.

2. “BÁNH: bánh dày”.

Viết đúng là “bánh GIẦY” hoặc “bánh GIÀY” (tên gọi bánh theo cách chế biến “giày”, “xéo” cho nát nhuyễn ra).

Không có sách từ điển tiếng Việt hoặc từ điển chính tả nào trong số hàng chục cuốn chúng tôi có trong tay ghi nhận “bánh dày” (từ đây, với những lỗi “có một không hai” này, sẽ được đánh ký hiệu [K] ở cuối đoạn trao đổi).

3. “BƠI: bơi chải”.

Viết đúng là “bơi TRẢI” (vì “trải” là một loại thuyền nhỏ, dài, dùng trong các cuộc thi bơi thuyền).[K]

4. “CHAI: con chai; canh chai”.

Việt Nam không có “đặc sản” nào như vậy. Phải chăng ý soạn giả muốn nói tới “con trai” (trong “Trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi”?) và món “canh trai” nấu bằng thịt của loài nhuyễn thể này?[K]

5. “CHẦY: chầy chật”

HTC: Viết chuẩn là “trầy trật” (trầy da, trật xương).[K]

6. “CHÉO: chéo ngoe; bắt chéo chân”.

Viết đúng là “tréo ngoe” (“tréo” = cái nọ quặp, ngoắc, vắt lên cái kia); trong khi “chéo” chỉ là những đường xiên cắt nhau.[K]

7. “CHỈNH: chỉnh chu”.

Viết đúng là “CHỈN chu”. Vì “chỉn” nghĩa là vốn, thật (Đạo trời, báo phục chỉn ghê, Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi – Kiều).[K]

8. “CHIỀU: xuôi chiều mát mái”.

Viết đúng là “xuôi CHÈO” (chèo = chèo thuyền), đối với “mát MÁI” (mái = mái chèo). Dị bản: Chèo xuôi mát mái; Êm chèo mát mái.[K]

9. “CÔNG: xung công”.

Viết đúng là “SUNG công” 充公, vì sung 充 là từ Việt gốc Hán = nhận thêm, nhập vào.[K]

10. “DẰNG: dằng xé; dằng níu”.

Viết đúng là “giằng xé”; “giằng níu”.[K]

11. “DÀY: dày trông mai đợi”.

Viết đúng là “RÀY trông mai đợi” = Nay trông mai đợi. Vì “rày” có nghĩa là “nay”, nên thường thấy mô hình rày/naymai như: rày nắng mai mưa; rày đây mai đó; rày/nay trông mai đợi…[K]

Ở mục “DÀY”, hàng loạt từ như “dày vò”, “dày xé”, “dày xéo”, “dây dày”, “voi dày ngựa xéo” đều sai chính tả. Theo đây, viết chuẩn phải là “GIÀY vò”, “GIÀY xé”, “GIÀY xéo”, “dây GIÀY”, “voi GIÀY ngựa xéo” (đúng ra là “voi giày ngựa XÉ”)[K]

12. “DÃY: dãy nảy”.

Viết đúng là “GIÃY nảy” (“giãy” trong “giãy đạp”, không phải “dãy” trong dãy bàn ghế).[K]

13. “DẪY (cv. dãy) dẫy dụa; dẫy nẩy”.

Viết đúng là “GIẪY giụa”, “GIẪY nẩy”. Soạn giả sai ở cả hai mục “DÃY nảy” và “DẪY nẩy”, chứng tỏ không phải sự cố.[K]

14. “DẤU: dấu diếm”.

Viết đúng là “GIẤU GIẾM” (“giấu” trong “giấu kín”; không phải “dấu” trong “dấu vết”).[K]

15. “DỞ: dở trò”.

Viết đúng là “GIỞ trò” (“giở” trong “giở ra”; không phải “dở” trong “dở dang”).

16. “DỤC: dục dịch”.

Tiếng Việt không có khái niệm này. Không lẽ soạn giả muốn hướng dẫn viết từ “RỤC RỊCH”?[K]

17. “GIÂY: giây dưa”.

Viết đúng là “DÂY dưa” (dây của cây dưa). Vì “dây dưa” bò lan, nhánh nọ đẻ nhánh kia, nên có một nghĩa bóng chỉ “anh em họ hàng xa”. Ví dụ: “Hai nhà ấy có dây dưa gì với nhau đâu!” (tương tự “dây mơ rễ má”). Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức) ghi nhận: “dây dưa • Dây cây dưa. Nghĩa bóng: Họ hàng xa; lôi-thôi không dứt”.[K]

18. “MA: ma chơi”.

Viết đúng là “ma TRƠI”. “Trơi” ở đây là dối, có mà không thật. Thế nên người Thanh Hóa gọi thằng bù nhìn giữ dưa là “thằng trơi dưa” = thằng người giả giữ dưa. Cũng như “ma trơi” là ánh lửa lập lòe thường xuất hiện ở bãi tha ma vào những đêm mưa thâm gió bấc, khi ta đến gần thì vụt tắt tựa như ảo ảnh, có hình sắc mà như không.[K]

19. “QUỐC: trứng quốc”.

Không lẽ soạn giả muốn nói tới trứng của một loài chim có tên là “CUỐC”?[K]

20. “SAO: thôi sao”.

“Thôi XAO” 推敲 mới có nghĩa là đẽo gọt, lựa chọn chữ nghĩa. Nguyên Giả Ðảo đời Đường có câu thơ: Điểu túc trì trung thụ, Tăng xao nguyệt hạ môn 鳥宿池中樹,僧敲月下門. Vốn Giả Ðảo định dùng chữ thôi 推 = đẩy (cửa), rồi lại định dùng chữ xao 敲 = gõ (cửa), băn khoăn mãi mà không biết nên chọn chữ nào. Khi hỏi Hàn Dũ, ông bảo nên dùng chữ xao 敲.Sau này “thôi xao” 推敲 được dùng với nghĩa cân nhắc, lựa chọn chữ nghĩa. Viết “thôi SAO” là vô nghĩa.[K]

21. “SẺ: sẻ đàn tan nghé”.

Viết đúng là “sẩy/sểnh đàn tan nghé”. Vì “sẩy” hay “sểnh” mới có nghĩa là hụt, lạc, lỡ, mất (như “sẩy/sểnh nạ quạ tha”; “sẩy miệng buột lời”). Viết “SẺ” là vô nghĩa.

22. “SUẤT: chiết suất”.

Mục “CHIẾT” lại thấy ghi nhận cả “chiết SUẤT” + “chiết XUẤT”, khiến độc giả chẳng biết đâu mà lần. Ví dụ nếu “chiết suất” (vật lý) thì đúng, còn “chiết suất” (công nghiệp) với nghĩa tách để lấy tinh chất từ thảo mộc hoặc một hỗn hợp chất nào đó thì sai. Kiểu biên soạn thiếu khoa học này còn thấy ở rất nhiều mục từ khác.

23. “SỬ: xét sử”.

Viết đúng là “xét XỬ”. Vì “XỬ” 處 là từ Việt gốc Hán, có nghĩa xử hình án; còn “SỬ” 使 lại có nghĩa là khiến, sai khiến (viết “xét SỬ” có thể bị suy diễn thành: xét hỏi + sai khiến, ép cung). Cũng như phải viết “XỬ án” 處案 chứ không phải “SỬ án”.[K]

Kỳ tới: Nhiều lỗi nặng đến khó tin

HOÀNG TUẤN CÔNG