Bốn cách giúp TP.HCM trở thành một trung tâm tài chính
TP.HCM phải trở thành một trung tâm tài chính quốc gia, sau đó mới bước ra toàn cầu, trong quá trình này những cải cách chính sách vẫn là điều kiện thiết yếu.
Bốn cách giúp TP.HCM trở thành một trung tâm tài chính
TP.HCM phải trở thành một trung tâm tài chính quốc gia, sau đó mới bước ra toàn cầu, trong quá trình này những cải cách chính sách vẫn là điều kiện thiết yếu.
TP.HCM cần được đầu tư cho cơ sở hạ tầng vật chất cũng như giáo dục và đào tạo nhiều hơn nữa để trở thành trung tâm tài chính khu vực – Ảnh: N.BÌNH
TP.HCM có tiềm năng theo mô hình của Tokyo, Thượng Hải, Mumbai và các thành phố khác thành các trung tâm nổi trội về tài chính toàn cầu.
Muốn vậy, trước hết TP.HCM phải trở thành một trung tâm tài chính quốc gia, sau đó mới bước ra toàn cầu. Đi cùng quá trình này là sự đòi hỏi đầu tư cho cơ sở hạ tầng vật chất cũng như giáo dục và đào tạo, nhưng những cải cách chính sách vẫn là điều kiện thiết yếu.
Hiện nay Việt Nam có nhu cầu đầu tư khổng lồ, chỉ riêng về cơ sở hạ tầng, nhu cầu đầu tư hàng năm ước tính cần khoảng 18 tỉ đến 20 tỉ USD. Nếu TP.HCM có thể trở thành một đơn vị kêu gọi vốn hiệu quả thì sẽ trở thành trung tâm thu hút vốn không chỉ từ các nguồn trong nước mà còn nguồn vốn nước ngoài. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thực của Việt Nam, tăng cường các kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để chuyển đổi từ một trung tâm tài chính quốc gia thành một trung tâm tài chính quốc tế.
Để trở thành một trung tâm tài chính quốc gia và tiến một bước nữa là trung tâm tài chính quốc tế, TP.HCM cần có đầu tư cho cơ sở hạ tầng vật chất cũng như giáo dục và đào tạo, nhưng những cải cách chính sách vẫn là điều kiện thiết yếu.
Dù phát triển trong cách thức nào, các trung tâm tài chính toàn cầu trên khắp thế giới có một số đặc điểm chung như sau.
Thứ nhất, khung pháp lý toàn diện. Các nhà đầu tư quốc tế cần luật pháp rõ ràng với việc thực thi có thể dự đoán được. Hiện tại, Việt Nam có một số luật quan trọng cần được tăng cường hoặc ban hành, bao gồm Luật Chứng khoán, Luật Các Tổ chức tín dụng và luật về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư để thu hút thêm đầu tư vào chứng khoán, ngân hàng và cơ sở hạ tầng trong nước.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng thị trường vững chắc. Các nhà đầu tư bị hấp dẫn bởi những thị trường nơi họ có thể hoàn tất giao dịch một cách hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Việt Nam đang tụt hậu trong một số lĩnh vực quan trọng. Các phương thức quyết toán tổng tức thời theo thời gian thực (real time gross settlement) và giao và thanh toán (delivery-versus-payment) chưa phát triển.
Cơ chế bù trừ ròng chưa đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và buộc các ngân hàng nước ngoài phải nắm giữ thêm vốn dự phòng rủi ro ở Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam không có lãi suất tiêu chuẩn ngắn hạn theo thị trường, vốn là nền tảng cho rất nhiều thành tố khác của thị trường vốn hiện đại.
Thứ ba, chính sách tiền tệ độc lập. Nhà đầu tư muốn có khả năng dự đoán đối với chính sách. Hàm ý ở đây là các quyết sách tiền tệ phải được đưa ra với mức độ độc lập nhất định. Điều này bao gồm tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái, sự ổn định của lãi suất liên ngân hàng, và xác định tỷ lệ lạm phát.
Và cuối cùng là cần có các cơ chế mạnh mẽ để chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố. Bản thân Việt Nam đã cam kết thực thi các khuyến nghị của Lực lượng Đặc nhiệm Hành động Tài chính về chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố. Đây là những yếu tố then chốt để bảo đảm rằng các ngân hàng và nhà đầu tư nước ngoài có thể giao dịch an toàn tại thị trường trong nước.
Khó có “phiên bản” Dubai thứ 2
Trong thập niên 2000, Dubai đã nổi lên như một trung tâm tài chính toàn cầu và trở thành hình mẫu đáng khao khát của các thành phố khác. Từ một nền kinh tế có quy mô GDP khoảng 104 tỉ USD, đến năm 2018, nền kinh tế của Các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất không chỉ tăng gấp bốn lần về quy mô mà còn trở nên ít phụ thuộc hơn vào dầu mỏ, với các dịch vụ tài chính là một động lực tăng trưởng cơ bản.
Dubai đạt được vị thế này chủ yếu nhờ vào sức mạnh ý chí. Nơi đây không phải là một trong những trụ cột của kinh tế thế giới như New York hay London vì thành phố này không hưởng lợi từ di sản thực dân là luật pháp Anh và các kỹ năng ngôn ngữ.
Dù vậy, thành phố này có một số lợi thế về mặt địa lý, như là trung tâm vận tải hàng không toàn cầu và có những láng giềng giàu có với nguồn tiền nhàn rỗi từ dầu mỏ sẵn sàng đầu tư.
Không những thế, thành phố này cũng không có bất kỳ đối thủ tương đương rõ rệt nào trong khu vực cho các dịch vụ tài chính và đã có thể lấp vào khoảng trống hiếm hoi còn lại, xét tới sự nở rộ sau đó của các trung tâm tài chính đầy khát vọng.
Nhờ ý chí chính trị hết sức mạnh mẽ và đã mở rộng tới mức sửa đổi Hiến pháp Các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất năm 2004 đã cung cấp khuôn khổ pháp lý cần thiết cho một trung tâm tài chính toàn cầu.
Để sẵn sàng có những góc nhìn, tư duy mới trong quản lý, Các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất đã đầu tư cho những thay đổi pháp lý, mức lương cho chuyên gia nước ngoài, cơ sở hạ tầng vật chất và ưu đãi thuế.
Không nhiều quốc gia có khả năng cũng như sẵn sàng chi trả những khoản chi tiêu lớn như vậy.
Dự báo đến năm 2050, VN sẽ nằm trong số 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nếu TP.HCM có thể phối hợp với chính quyền trung ương thực hiện những cải cách tài chính quan trọng trên thì cơ hội cho TP.HCM đi theo mô hình của Tokyo, Thượng Hải, Mumbai và những nơi khác sẽ rất lớn.
Các thành phố này đã trở thành các trung tâm tài chính toàn cầu bằng cách trước hết tài trợ cho sự phát triển của nền kinh tế trong nước.
Donald Lambert, Chuyên gia cấp cao của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) về phát triển khu vực tư nhân