26/11/2024

Bài 3: Thời điểm cho một cuộc Tân Phúc Âm Hoá

Giáo Hội Công giáo, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, càng ngày càng khám phá ra nội dung xâu xa và phong phú của việc Tân Phúc Âm Hoá để đổi mới chính mình. Vậy Tân Phúc Âm Hoá là gì, bao gồm nội dung nào, cuối cùng ta sẽ cảm nghiệm được rằng TPAH là quay trở lại gặp gỡ Đức Kitô và xuất phát từ Người để ra khơi chinh phục muôn loài cho Chúa.

 Bài 3

(Tĩnh tâm thường niên năm 2013 của Dòng Thừa sai Đức tin)

Thời điểm cho một cuộc Tân Phúc Âm Hoá

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK

Lời mở

Giáo Hội Công giáo, khi dự tính mở Thượng Hội đồng Giám mục với đề tài “Tân Phúc Âm Hoá để truyền bá đức tin”, trước tiên chỉ nhằm tái rao giảng Tin Mừng cho các nước châu Âu đã bỏ đức tin Kitô giáo. Nhưng rồi dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội càng ngày càng khám phá ra nội dung xâu xa và phong phú của việc Tân Phúc Âm Hoá để đổi mới chính mình. Khi đối mặt với những đổi thay nhanh chóng của thế giới, Giáo Hội đã tìm ra câu trả lời hay giải pháp cho các vấn đề. Giải pháp đó là Tân Phúc Âm Hoá. “Khởi đầu Giáo Hội chỉ thấy Tân Phúc Âm Hoá là một nhu cầu, rồi như một hoạt động phân định và sau cùng như một động lực thúc đẩy Giáo Hội hôm nay” (x. TLLV, số 44). Nội dung bao hàm trong từ này dần dần sáng tỏ.

Trong phạm vi bài này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu Tân Phúc Âm Hoá là gì, bao gồm nội dung nào, cuối cùng cảm nghiệm được rằng TPAH là quay trở lại gặp gỡ Đức Kitô và xuất phát từ Người để ra khơi chinh phục con người cũng như vạn vật cho Chúa.

1. Tân Phúc Âm Hoá là gì?

1.1. Phân biệt từ ngữ

Trước hết chúng ta nên phân biệt đôi chút về từ ngữ để sử dụng chính xác. Chúng ta có nhiều từ liên quan đến Tin Mừng (TM) hay Phúc Âm như “Tin Vui”, “Tin Lành” hoặc liên quan đến công việc như “loan báo Tin Mừng”, “rao giảng TM”, “công bố TM”. Từ Tin Mừng hay Phúc Âm có nguyên ngữ Hy Lạp “evangelion” rồi chuyển sang từ Latinh “evangelium” được người tín hữu Kitô hiểu là những lời của Chúa Giêsu loan báo về Nước Trời, về tình yêu cứu độ của TC dành cho con người nên là những lời mang lại niềm vui và hạnh phúc. Sau đó còn được hiểu rộng ra là tất cả những gì ghi lại những lời dạy và hành động của Chúa Giêsu, cụ thể là 4 sách Tin Mừng hay 4 Phúc Âm. Cuối cùng, qua những suy tư Thánh Kinh và thần học, Tin Mừng bao gồm một nội dung phong phú mà trước hết và trên hết là chính Đức Giêsu Kitô vì Người Tin Mừng của Thiên Chúa như Tài liệu Làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục 2012 nhắc đi nhắc lại nhiều lần ở các số 18, 19, 20, 21, 26, 33, 169.

Bản Đề cương của THĐGM 2012 nhắc nhở chúng ta rõ ràng: “Khi nói đến Tin Mừng, chúng ta không được chỉ nghĩ về nó như là một cuốn sách hay một tập hợp các lời giáo huấn. Tin Mừng là một cái gì nhiều hơn nữa; nó là một Lời sống động và linh nghiệm, nói điều gì thì điều đó trở thành hiện thực. Tin Mừng không chỉ là một hệ thống các điều khoản đức tin và giới răn đạo đức, càng không phải là một chương trình chính trị, mà là một con người: Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa đã làm người. Tin Mừng là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, Tin Mừng không chỉ lấy Đức Giêsu Kitô làm nội dung, nhưng hơn thế nữa, nhờ Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu Kitô cũng là người cổ vũ và là tâm điểm của việc rao giảng và truyền bá Tin Mừng. Do đó, mục tiêu của việc truyền bá đức tin là thể hiện một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu Kitô, trong Thánh Thần, nhờ đó dẫn đưa chúng ta tới một trải nghiệm về Cha của Người và Cha của chúng ta” (Đề Cương THĐGM 2012, số 11).

“Đức tin Kitô giáo không chỉ là những giáo huấn, những lời khôn ngoan, một bộ luật luân lý hay một truyền thống. Đức tin Kitô giáo là một cuộc gặp gỡ và quan hệ đích thực với ĐGK” (TLLV, số 18).

1.2. Tiến trình đi tìm định nghĩa cho Tân Phúc Âm Hoá

Khởi đầu, người ta hiểu “Tân Phúc Âm Hoá như là một cách thức mới để loan báo TM , đặc biệt cho những người đang sống trong tình hình hiện nay, vốn bị ảnh hưởng bởi trào lưu tục hoá ngày càng gia tăng và diễn ra ở mức độ nghiêm trọng tại các nước vốn có truyền thống Kitô giáo lâu đời” (TLLV, số 44, 85). Tân Phúc Âm Hoá đồng nghĩa với từ tái Phúc Âm hoá hay tái rao giảng TM trước nhu cầu đối với người Kitô hữu đã bỏ Chúa Kitô, cụ thể là ở những nước Tây Phương. Tin Mừng trong nghĩa này vẫn được hiểu là sứ điệp hay giáo lý của Chúa Giêsu Kitô.  

Nhưng rồi qua những chuẩn bị cũng như đóng góp ý kiến của các Giáo Hội địa phương, người ta thấy rằng việc Tân Phúc Âm Hoá bây giờ trở thành một việc phân định, tức là mỗi Giáo Hội địa phương nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng đọc và hiểu rõ những lĩnh vực mới xuất hiện để đối phó với bối cảnh mà họ đang phải đối mặt, đụng chạm với những thách thức mà thế giới và xã hội đặt ra cho Giáo Hội của mình (x. TLLV, số 51).

“TPAH bây giờ không phải là Tái Phúc Âm hoá (TLLV, số 45), nhưng là một cuộc Phúc Âm hoá mới: mới về nhiệt huyết, phương pháp và cách biểu hiện của nó (TLLV, số 87). Châu Âu không thể chỉ dựa vào di sản trước kia của mình mà phải có khả năng  quyết định về tương lai của mình phù hợp với con người và sứ điệp của Đức Giêsu Kitô” (TLLV, số 45). Tin Mừng bây giờ bắt đầu được hiểu là chính con người ĐGK hơn là sứ điệp của Người.

Cuối cùng, việc Tân Phúc Âm Hoá lại trở thành như một động lực thúc đẩy Giáo Hội đổi mới chính mình và trở thành một Tin Mừng sống động cho người khác khi hiểu chính GH phải gặp gỡ, gắn bó với ĐGK thì mới có thể đổi mới rồi đi vào thế giới hôm nay và loan báo Tin Mừng của Người cho mọi loài thụ tạo. “Giáo hội phải có một sức sống mới, quyết tâm, nguồn lực và sự mới mẻ để tìm ra cách thức sống và truyền bá đức tin của mình” (x. TLLV, số 49). Phúc Âm Hoá bây giờ đồng nghĩa với từ “Kitô hoá” hay “Giêsu hoá” hoặc “Giêsu-Kitô hoá” nghĩa là biến đổi chính mình nên giống Chúa Giêsu Kitô, đưa Chúa Giêsu Kitô thâm nhập đời sống và mọi lĩnh vực của đời sống.

Do đó, từ Tân Phúc Âm Hoá bây giờ mang một nội dung sâu xa hơn từ loan báo TM, rao giảng TM hoặc công bố TM và từ nay sẽ được sử dụng thường xuyên hơn trong các văn kiện của GH. Lý do là vì khi nói loan báo TM người ta có thể hiểu là loan báo Đức Giêsu Kitô, nhưng khi dùng với từ “loan báo” thì nó không thể mang ý nghĩa biến đổi thành Chúa Giêsu Kitô hay đưa CGK thâm nhập vào mọi lĩnh vực được. Khi nói “Phúc Âm hoá là nói về sứ mạng đến với muôn dân, nhắm tới những người chưa biết Đức Giêsu” còn “TPAH là hoạt động mục vụ nhắm tới những người không còn thực hành đức tin Kitô giáo” (x. TLLV, số 85, 86, 87).

1.3. Tân Phúc Âm Hoá bao gồm những yếu tố nào?

Để rao giảng Tin Mừng cho có hiệu quả thiết thực, người tín hữu Kitô phải xuất phát lại từ Đức Kitô như rất nhiều văn kiện chính thức của Giáo hội đã nhắc nhở từ lúc chuẩn bị Năm Thánh 2000 đến nay, nhất là phải trở về gặp gỡ ĐGK thì mới có thể xuất phát từ Người.

“Truyền bá đức tin có nghĩa là tạo lập ở mọi nơi và mọi thời những điều kiện dẫn tới cuộc gặp gỡ này giữa con người với ĐGK. Mục tiêu của tất cả việc Phúc Âm Hoá là tạo lập khả năng cho cuộc gặp gỡ này, một cuộc gặp gỡ vừa cá nhân và thân mật, vừa công khai và cộng đồng. ĐTC Bênêđictô nói: “ Làm Kitô hữu không phải là kết quả của một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao vời, nhưng là cuộc gặp gỡ với một sự kiện, một con người, một cuộc gặp gỡ đem đến một chân trời mới và một hướng đi quyết định” (TLLV, số 18).

“Đối với Đức Giêsu, mục đích của việc Phúc Âm hoá là lôi kéo con người vào trong mối liên hệ mật thiết với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đây là lý do hàng đầu của việc Người rao giảng và làm phép lạ: công bố ơn cứu độ… để cho mọi người trải nghiệm mình được Thiên Chúa yêu thương và học biết để nhận ra Người khuôn mặt của một người Cha từ bi nhân hậu (x. Lc 15)… Đức Giêsu chữa nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy…” (TLLV, số 18).

“Tân PAH không có nghĩa là đi tìm một Phúc Âm mới, vì ĐGK vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13,8). “TPAH có nghĩa là nuôi dưỡng một nền văn hoá ăn rễ sâu trong TM và khám phá ra “con người mới” (Ep 4,24) ở trong chúng ta như là kết quả của Thần Khí được Chúa Giêsu và Chúa Cha ban cho chúng ta”. (x. TLLV, số 164).

 “TPAH có nghĩa là đốt cháy lên trong chúng ta sức bật của GH thời kỳ đầu và để mình được tràn đầy nhiệt huyết rao giảng TM của các tông đồ sau biến cố Hiện Xuống. Chúng ta phải làm sống lại nơi mình niềm xác tín nóng bỏng của Thánh Phaolô khi ngài thốt lên : “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng TM” (1Cr 9,16) (x. TLLV, số 165).

“TPAH tăng cường ngày một hơn mối quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu Kitô, vì chỉ một mình Người là sự chắc chắn cho tương lai và là bảo đảm cho một tình yêu đích thực và vững bền” (x. TLLV, số 166).

2. Xuất phát lại từ Đức Giêsu Kitô để loan báo Tin Mừng

Để thực hiện việc Phúc Âm Hoá, cần có 3 yếu tố: chủ thể, đối tượng và nội dung. Chủ thể là người thực hiện việc Phúc Âm Hoá nên chính người ấy phải được Đức Giêsu Kitô biến đổi, trở thành hiện thân sống động của Người, thành Tin Mừng cụ thể như Chúa Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa cụ thể cho muôn loài. Đối tượng là người nghe loan báo, người đón nhận Phúc Âm và được Phúc Âm hoá cũng phải được Chúa Giêsu là Tin Mừng biến đổi để chấp nhận những giá trị cao quý của Nước Trời và thể hiện những giá trị ấy trong đời sống. Còn nội dung Tin Mừng là chính Đức Giêsu Kitô vừa là Đấng biến đổi vừa là giá trị được đón nhận. Cả ba yếu tố này đều nối kết mật thiết với văn hoá và đòi hỏi ta phải hiểu biết về văn hoá để đưa Đức Giêsu và giá trị đích thực của Phúc Âm thâm nhập vào mọi lĩnh vục của đời sống.  Điều này cũng có nghĩa là thâm nhập trọn vẹn vào nền văn hoá vì văn hoá bao gồm mọi giá trị thể chất và tinh thần mà nhân loại tạo được trong giai đoạn nhất định nào đó của lịch sử. Chính vì thế mà Tài liệu Làm việc của THĐ luôn nhắc đến từ văn hoá trong suốt văn kiện.

2.1. Ba yếu tố trong cuộc Phúc Âm hoá

2.1.1. Trước hết, đối với chủ thể là người loan báo Tin Mừng, người này đang có sẵn một nền văn hoá nào đó, thí dụ các vị thừa sai trước đây đến truyền giáo ở nước ta: họ có sẵn một nền văn hoá Tây Phương với cách ăn uống, suy nghĩ, nói năng, hành động của người Tây Phương. Nhưng khi ở Việt Nam, các linh mục thừa sai học tiếng Việt, mặc áo dài đen, đội khăn xếp, dùng bát đũa ăn cơm như mọi người: đó là họ đã hội nhập với văn hoá Việt Nam.

Nhiều chủ thể loan báo Tin Mừng hiện nay là những người đang chịu ảnh hưởng của nền văn minh tin học, của ý thức hệ duy nghiệm, duy lý, duy thực, của chủ trương giải trừ huyền thoại cho Tin Mừng mà nhà thần học Tin Lành Bultmann đã khởi xướng nên chối bỏ sự phục sinh của Đức Kitô như một sự kiện có thật trong lịch sử, chối bỏ các phép lạ của Chúa Giêsu Kitô, chưa có những cảm nghiệm sống động về Thiên Chúa và chỉ giải thích Tin Mừng theo những phương pháp chú giải lịch sử của con người thì làm sao có thể giới thiệu đúng đắn Chúa Giêsu Kitô cho người khác? Do đó, chúng ta không lạ lùng trước những kết quả yếu kém của việc loan báo Tin Mừng hiện nay.

2.1.2.Thứ đến, đối tượng là người nghe Tin Mừng, họ có thể là những người cùng văn hoá với người loan báo Tin Mừng, nhưng cũng có thể khác, nên không cùng nhận thức, hành động, thói quen. Vì thế, cần phải tìm hiểu nền văn hoá của người nghe để thấy giá trị nào phù hợp với Tin Mừng thì giữ lại, giá trị nào đi ngược với Tin Mừng thì giải thích cho người nghe hiểu để loại bỏ.

Thí dụ: khi đạo Công giáo được truyền vào Việt Nam cách đây ba, bốn thế kỷ, dân tộc Việt Nam đang theo chế độ quân chủ chuyên chế độc tài, coi vua là Thiên Tử, là Con Trời, có toàn quyền sinh sát trong tay. Điều này không hợp với Tin Mừng, nên các nhà truyền giáo giới thiệu một Thiên Chúa là Cha Chung của mọi người và là chủ sự sống, còn tất cả đều là anh em nên không ai có quyền giết ai. Hơn nữa, Đức Giêsu là Thiên tử, là Con Chúa Trời, còn chết thay cho người khác. Tin Mừng như thế giới thiệu giá trị dân chủ và dạy người ta nhận ra vua là đại diện Thiên Chúa cầm quyền trị nước, nên phải trung thành với vua và giữ tình huynh đệ với mọi người. Đó là giới thiệu các giá trị của Tin Mừng cho người nghe.

Những người nghe Tin Mừng ngày nay thường là những người có cùng một nền văn hoá và văn minh với người loan báo tin Mừng vì hầu như các tín hữu Kitô địa phương có nhiệm vụ phải loan báo Tin Mừng cho đồng bào mình, trừ phi họ sống ở các nước chậm phát triển, với một nền văn hoá xa lạ đối với các nhà truyền giáo đến từ các nước văn minh. Người nghe Tin Mừng khao khát được hiểu biết, được cảm nghiệm Đức Kitô một cách sống động, được thấy tận mắt cả những phép lạ để làm chứng cho Tin Mừng (x. Mc 16, 15-20) qua đời sống nhân chứng của chủ thể. Nhưng nếu  họ không hiểu, không thấy, không cảm nhận được những dấu chỉ của Đức Giêsu Kitô trong đời sống của người loan báo thì sẽ không tin Đức Giêsu Kitô.

Hơn nữa, người nghe Tin Mừng có thể khác tôn giáo với người loan báo. Tôn giáo cũng là yếu tố cao nhất của văn hoá. Tôn giáo bao gồm một hệ thống giá trị mà người theo tôn giáo hình thành trong đời sống của mình. Vì thế, người loan báo Tin Mừng cũng phải khám phá ra những giá trị nào phù hợp với Tin Mừng trong tôn giáo của người nghe để tôn trọng và gìn giữ cũng như thấy giá trị nào không hợp để giải thích và thay thế. Thí dụ, việc cầu cho vong hồn người chết, việc cúng giỗ tổ tiên ông bà, cõi Niết Bàn-địa ngục của đạo Phật có những điểm tương đồng hay khác biệt nào với đạo Công giáo, theo đạo Công giáo có phải là bỏ ông bà, tổ tiên? Nhiều người Việt Nam hiện nay vẫn chưa tìm được câu giải đáp rõ ràng cho những đề tài này dù đạo đã được truyền bá gần 500 năm qua!

2.1.3. Cuối cùng, nội dung là Tin Mừng phải rao giảng. Rất nhiều người tín hữu chúng ta lại hiểu lầm Tin Mừng chỉ là những lời trong cuốn Tân Ước, những giáo thuyết phải học, những bài giáo lý phải dạy chứ không phải là chính Đức Giêsu.

Vì thế, chúng ta cũng cần phải khám phá ra những giá trị nào thuộc về Tin Mừng vĩnh cửu và giá trị nào thuộc về văn hoá đương thời của dân Do Thái hay của một cộng đồng, một tập thể nào đó. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Khi làm người là Người bị giới hạn trong một không gian, thời gian nhất định nên Chúa Giêsu đã mang những nét văn hoá của thời đại. Như thế, muốn giới thiệu Đức Giêsu như một Tin Mừng vĩ đại chúng ta phải biết đâu là yếu tố văn hoá của Người, đâu là giá trị thực của Tin Mừng Người muốn loan báo, đâu là yếu tố nhất thời của dân tộc Do Thái cần bỏ qua. Nếu không hiểu rõ nền văn hoá ấy, chúng ta sẽ không loan báo Đức Kitô một cách đúng đắn và hiệu quả.

Nhìn lại lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, chúng ta sẽ thấy cha ông ta đã rất thành công trong việc giới thiệu nền văn hoá Công giáo để chuẩn bị cho việc xây dựng nền văn minh tình yêu.

2.2. Xuất phát lại từ Đức Giêsu Kitô  như thế nào?

2.2.1Cần phải xuất phát lại từ Đức Kitô

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong các lời giáo huấn của mình qua những thông điệp, tông huấn, tông thư, diễn văn, bài nói chuyện… luôn mời gọi tín hữu tập trung vào Đức Kitô để xuất phát lại từ Người, nhất là dùng những giá trị của Tin Mừng để thâm nhập đời sống văn hoá xã hội qua thông điệp “Giáo Hội tại châu Á” được công bố ngày 6-11-1999.

Quả thật trong 2.000 năm qua, trong vài thế kỷ đầu tiên Giáo Hội sơ khai biết tập trung vào Đức Kitô và lời dạy của Người, gắn bó với Chúa Thánh Thần nên việc truyền giáo cũng như việc phổ biến văn hoá Công giáo đạt được kết quả lớn lao. Từ năm 313 trở đi, sau khi được tự do giữ đạo, Giáo Hội mất dần sự quan tâm vào Chúa Giêsu để chú ý vào những điểm khác như tổ chức cộng đồng với giáo phận, giáo xứ, xây cất các cơ sở tôn giáo như nhà thờ, đền thánh, rồi từ thế kỷ 11,12 vào việc thiết lập các dòng tu và noi gương các thánh lập dòng hơn noi gương Chúa Giêsu, thế kỷ 15,16 vào việc lo cho các công tác mục vụ, truyền giáo, thế kỷ 19 và 20 lo đối phó với những học thuyết sai lạc…

Chỉ từ giữa thế kỷ 20, người ta mới bắt đầu quan tâm đến môn Kitô học nhưng cho tới ngày nay, môn học này vẫn kém phát triển, chưa đạt tới tầm vóc xứng hợp như là môn học nền tảng của Kitô giáo. Công đồng Vaticanô II với các văn kiện của mình như muốn nhắc nhở tín hữu Công giáo tập trung vào Đức Kitô như nền tảng và gương mẫu cho mọi hoạt động Kitô hữu. Huấn thị “Xuất phát lại từ Đức Kitô” của Thánh Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ ban hành ngày 19-5-2002 nhắc nhở tu sĩ nam nữ tìm về nguồn sống là Chúa Kitô thay vì tập trung vào vị Sáng lập dòng.

Nhiều đại học Công giáo hiện nay không có giảng khoá hoàn chỉnh về môn Kitô học do những tranh cãi về quan điểm thần học liên quan tới Đức Kitô nhất là giữa các dòng tu với nhau. Nhiều đại chủng viện vẫn giảng dạy giáo trình Kitô học lỗi thời, thậm chí sai lạc, mà không cập nhật những điểm giáo lý mới mẻ và đúng đắn được trình bày trong các sách như Giáo lý Hội Thánh Công giáo (Bộ Giáo lý Đức tin ban hành ngày 11-10-1992, bản dịch Việt hoàn chỉnh và in năm 2009, NXB Tôn Giáo, Hà Nội), Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo (Hội Đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình công bố năm 2004, bản dịch Việt hoàn chỉnh và in năm 2007, NXB Tôn Giáo, Hà Nội), Đức Giêsu Nazareth 3 tậpcủa ĐGH Bênêđictô XVI (Tập I công bố ngày 30-9-2006, bản dịch Việt hoàn chỉnh và in năm 2008, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, tập II công bố ngày 25-4-2010 và mới có bản dịch Việt ngữ cuối năm 2011, tập III hy vọng sẽ có bản dịch tiếng Anh vào tháng 12-2012, bản dịch Việt ngữ sau đó).

Người ta thường nói:”Vô tri bất mộ” (không biết nên không tôn kính). Chính vì chưa hiểu biết rõ ràng, đúng đắn về Đức Kitô nên đời sống đạo của người tín hữu không toả ánh sáng Tin Mừng để có sức thu hút người khác tìm về với Đức Kitô. Hơn nữa, việc hiểu biết này sẽ giúp người ta đạt đến việc yêu mến Đức Kitô và gắn bó mật thiết với Người để cảm nhận được sự sống kỳ diệu của Thiên Chúa mà Người chia sẻ cho mình. Từ đó họ mới trở thành một Tin Mừng sống động, thành hiện thân của Đức Kitô và mới làm chứng cho Người bằng cách kể lại câu chuyện của đời Chúa cũng là câu chuyện của đời mình.

Từ kinh nghiệm trên đây, Uỷ ban truyền giáo các nước châu Á mới chọn chủ đề của Đại hội Truyền giáo Châu Á 2005 ở Chang Mai, Thái Lan, là “Kể lại câu chuyện Giêsu” như các tông đồ xưa sau khi họ hiểu biết và cùng sống với Người. Chủ đề của Đại hội Truyền giáo Châu Á 2010 ở Seoul, Hàn Quốc, cũng lấy lại chủ đề ấy “Công bố câu chuyện Giêsu”, nhưng nâng cao hơn một mức vì “công bố” đòi hỏi ta nói về Đức Giêsu một cách trang trọng, có nghiên cứu, có bài bản mà vẫn dựa trên kinh nghiệm sống động của người làm chứng.

2.2.2. Hiệu quả của việc trở về với Đức Kitô

* Trở lại với Đức Kitô là chúng ta sẽ tìm lại được cảm nghiệm sống động của các tông đồ về Đức Giêsu Phục Sinh như là tâm điểm cho mọi hoạt động và suy tư của mình. Đức Giêsu không phải là một mớ thông tin mà ta đã thu thập được trong những giờ học giáo lý hay qua những bài giảng, bài kinh, nhưng là một con người đang sống giữa chúng ta và sống trong ta để ta có mối tương quan mật thiết với Người. Để hiểu trọn vẹn về một con người đang sống, ta không phải chỉ cần thông tin mà còn phải gặp gỡ, tiếp xúc, yêu thương và hoà nhập thành một trong nhau “để tôi sống không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (x. Gl 2,20) như thánh Phaolô cảm nghiệm…

ĐTC Bênêđictô đã khẳng định: “Trở thành Kitô hữu không phải là kết quả của một sự lựa chọn đạo đức hay của một ý tưởng cao cả, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một con người, nó đem sức sống đến cho một chân trời mới và một hướng đi có tính quyết định… Sự gặp gỡ thân mật này giúp cho các cá nhân chia sẻ mối quan hệ của Chúa Con với Cha của Người và trải nghiệm quyền năng Chúa Thánh Thần… Đây là kinh nghiệm mới mẻ về Thiên Chúa của người Kitô hữu” (x. Đề Cương THĐGM 2012, số 11) (TLLV, số 18).

* Sống trong một đất nước mà nền văn hoá và văn minh nơi người dân hiện nay mang nhiều tính cách đối nghịch: vừa tìm tòi khoa học và coi trọng kỹ thuật, vừa chạy theo những bùa phép với những tác động mê tín dân gian, ta cần phải trở lại với Đức Kitô và hoà nhập thành một với Người để Người chuyển thông cho ta quyền năng làm chứng cho Tin Mừng. Quyền năng này được thể hiện qua việc trình bày những giá trị văn hoá Kitô giáo một cách thuyết phục với những hiểu biết khoa học chính xác chứ không phải chỉ là những xúc động tình cảm nhất thời, nhất là qua các dấu lạ như chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, nói được thứ ngôn ngữ mới lạ của tình yêu mà Thánh Thần thúc đẩy trong lòng ta (x. Mc 16,16-20).

* Sống trong một châu lục với nhiều dân tộc có các nền văn hoá và tôn giáo khác nhau, ta cần trở lại với Đức Kitô để thấy Người không phải là của riêng Kitô giáo nhưng là Đấng Cứu Độ của toàn thể nhân loại và vũ trụ. Cha trên trời muốn cứu độ tất cả con cái mình nên đã ban Người Con Một cho chúng ta và Chúa Thánh Thần vẫn đang chuẩn bị cho việc Đức Kitô đến với mọi người cũng như không ngừng nói trong các tôn giáo (x. Tuyên ngôn của CĐ. Vat. II, Nostra aetate, số 1; Giáo hội tại châu Á, số 15,18). Học lại thái độ khoan dung của Đức Kitô, ta sẽ biết phân biệt những hình thức mê tín dị đoan đồng thời biết đánh giá đúng các nghi thức phụng vụ, lời kinh và cách sống của những người không cùng tôn giáo với mình, thậm chí ngay trong việc trừ ma diệt quỷ của họ (x. Mc 9,39-40).

* Trở lại với Đức Kitô ta sẽ khám phá ra mầu nhiệm Nhập Thể luôn gắn liền với mầu nhiệm Nhập Thế để can đảm dấn thân vào xã hội trần thế hôm nay. Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành Đức Giêsu Nazareth, đã đi vào dòng lịch sử con người, đã đón nhận những yếu tố của vũ trụ vật chất qua thân xác của mình. Người đã đưa tính cách tuyệt đối, vĩnh hằng, thánh thiện, vô cùng của Thiên Chúa vào trong cái tương đối, nhất thời, tội luỵ, hữu hạn của con người và vũ trụ để từ nay tất cả đều được biến đổi và thần hoá. Từ đấy, mỗi con người đều có giá trị vô song dù họ già nua, tàn tật, xấu xa đến đâu chăng nữa. Từ đấy, mỗi công việc đều có giá trị vĩnh hằng, đem lại ơn cứu độ dù nó chỉ kéo dài một vài giây như một nụ cười, một lời cám ơn, xin lỗi, hoặc việc làm có vẻ tầm thường như giặt quần áo mỗi ngày, hay rửa mặt đánh răng mỗi bữa, nhưng nhờ được gắn kết với Chúa Giêsu Kitô tất cả đều có giá trị vĩnh hằng.

* Trở lại với Đức Giêsu Kitô để thấy rằng qua việc Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành con người, thì “con người trở thành con đường của Thiên Chúa và cũng là con đường của Giáo Hội” để tập trung mọi cố gắng lo cho hàng tỷ con người trong vùng đất châu Á, nhất là những con người nghèo khổ, bệnh tật, yếu kém, bị bóc lột và bị gạt ra ngoài lề xã hội, như Đức Giêsu đã tất bật từ sáng sớm đến tối mịt để rao giảng Tin Mừng, cứu giúp người đói khát, chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ cho con người.

* Trở về với Đức Giêsu cũng có thể là lời kêu gọi các người có trách nhiệm xây dựng cơ sở vật chất trở về với tinh thần nghèo khó thật sự của Người. Những ngôi nhà thờ đồ sộ, những tu viện to lớn với cách bày trí sang trọng, sừng sững giữa các túp lều tranh rách nát, mái tôn han rỉ, cống nước thải lộ thiên trong một số miền ở Việt Nam cũng như ở châu Á có thể trở thành những pháo đài kiên cố khiến người ta ngại ngùng không dám tìm gặp Đức Kitô ở đó để từ đây xây những những cơ sở tôn giáo phù hợp với hoàn cảnh và tính trạng kinh tế của công đồng hơn.

* Những cuộc hành hương với vài trăm ngàn người trong các đại hội Thánh Thể, hay Đại hội Thánh Mẫu ở La Vang, Tà Pao, thậm chí ở nước ngoài, trong đó mỗi người ở xa tiêu hàng triệu đồng, người ở gần tốn vài chục ngàn cho việc đi lại ăn ở và nếu tính tổng cộng có thể lên tới hàng chục tỷ, hàng trăm tỷ đồng, trong khi hàng trăm ngàn học sinh vẫn còn thiếu sách vở, thiếu trường lớp, trong khi hàng triệu người khuyết tật chưa được săn sóc, nhiều bệnh nhân nghèo chưa cầm được bát cháo giúp đỡ thì có khi ta phải nhìn lại cách thức bày tỏ lòng đạo của chúng ta đối với Chúa và Đức Mẹ cho âm thầm, khiêm tốn và thật sự bác ái hơn chăng? Nói như thế không phải là chúng tôi có ý bài bác lòng sùng đạo bình dân nhưng chỉ mời gọi người tín hữu suy nghĩ để tình bác ái được diễn tả theo đúng sự thật của đất nước, của dân tộc và gia đình nhân loại như ĐTC Bênêđictô mời gọi trong thông điệp Caritas in veritate (ngày 29-6-2009) của ngài.

ĐTC Phaolô VI nhắc nhở chúng ta rằng: “Con người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn nghe những thầy dạy và nếu họ có nghe những thầy dạy thì đó là vì những thầy dạy này là những chứng nhân”. Vì vậy Giáo Hội sẽ Phúc Âm hoá thế giới bằng chính hành vi và đời sống của mình, nói khác đi, bằng việc làm chứng lòng trung thành của  Giáo Hội đối với Chúa Giêsu: chứng tá về sự nghèo khó và vô vị lợi, chứng tá về sự tự do trước những quyền lực của thế giới này, tóm lại, chứng tá về sự thánh thiện”(x. TLLV, số 158).

Lời kết

Có lẽ còn rất nhiều điều, nhiều việc trong nếp sống đạo của người tín hữu ở Việt Nam cũng như ở châu Á cần được nhận định và sửa đổi lại dưới ánh sáng Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô để biểu lộ được sự thật, sự sống và tình yêu của Người cho các dân tộc đang sống quanh mình. Đó là những giá trị nền tảng của nền văn minh tình yêu mà mỗi người tín hữu chúng ta đang thiết tha mong muốn xây dựng cho dân tộc Việt Nam. Chúng ta hy vọng sẽ có nhiều người tìm đến với Đức Kitô không phải chỉ qua những nghi lễ trang trọng, việc bác ái từ thiện của người tín hữu nhưng họ gặp được nguồn của tình yêu hạnh phúc, của chân thiện mỹ là chính Đức Kitô khi các Kitô hữu chúng ta tìm về với Người và xuất phát lại từ Người.

Câu hỏi gợi ý:

1. Bạn nghĩ kết quả truyền giáo tại Việt Nam chưa được tốt đẹp là do những yếu tố nào? Bản thân bạn đã loan báo Tin Mừng như thế nào? Kết quả cụ thể ra sao? Bạn có muốn chia sẻ một kinh nghiệm truyền giáo nào không?

2. Theo bạn, muốn xuất phát lại từ Đức Kitô, người tín hữu chúng ta cần phải làm gì?

3. Bạn nghĩ mình có thể làm gì để tăng thêm sự hiểu biết đúng đắn và có hệ thống về Đức Kitô?