Người Việt mua ô tô đắt đến bao giờ?
Cõng gánh nặng thuế, phí khiến giá ô tô tại Việt Nam cao ngất ngưởng.
Người Việt mua ô tô đắt đến bao giờ?
Cõng gánh nặng thuế, phí khiến giá ô tô tại Việt Nam cao ngất ngưởng.
Khách hàng xem xe tại một showroom ô tô Ảnh: Ngọc Dương
Suốt nhiều thập niên qua, với lý do để xây dựng ngành công nghiệp ô tô trong nước, người dân phải mua xe đắt gấp nhiều lần so với các nước trên thế giới.
Có loại xe phải đóng hơn 30 tỉ đồng thuế, phí
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, xe nhập từ Indonesia trong 10 tháng của năm có giá trung bình 12.480 USD/chiếc (tương đương gần 300 triệu đồng). Tuy nhiên, để đến tay người tiêu dùng, một chiếc xe nhập có giá vốn 300 triệu đồng, dung tích 2.0 – 2.5L phải chịu 50% thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) (150 triệu đồng), 10% chi phí bán hàng và 10% thuế giá trị gia tăng (VAT).
Như vậy, giá đưa ra đại lý thấp nhất là 510 triệu đồng chưa bao gồm các chi phí marketing, phí trước bạ 10 – 15% tùy địa phương, phí đăng kiểm, phí bảo trì đường bộ, phí cấp biển số, bảo hiểm… Các khoản này đội thêm khoảng hơn 100 triệu đồng nữa. Đến tay khách hàng, giá đã đội lên hơn gấp đôi. Nhưng đó là với xe nhập từ các nước trong khối ASEAN được hưởng thuế nhập khẩu 0%.
Giảm bớt các loại phí thì người tiêu dùng Việt mới có xe giá rẻ Ảnh: Ngọc Dương – Đồ họa: Đông Xuân |
Còn với xe nhập từ EU, theo lộ trình cam kết trong Hiệp định Thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA), thuế nhập khẩu ô tô về 0% sau 9 – 10 năm. Hiện tại, mức thuế nhập khẩu đang được áp dụng tới 70% chưa kể các loại thuế, phí khác.
Ví dụ chiếc BMW có giá vốn 1 tỉ đồng, cộng thêm 70% thuế nhập khẩu, 60% thuế TTĐB (loại xe trên 3.0L), 10% VAT và chi phí bán hàng… Giá tại đại lý đã lên hơn 3 tỉ đồng, chưa tính chi phí đăng ký xe, gấp 3 lần so với giá gốc.
Chúng ta nên sớm bỏ bảo hộ sản xuất ô tô trong nước, nhưng phải đánh giá nỗ lực của doanh nghiệp cố gắng nội địa hóa linh kiện để đánh giá đúng thuế tiêu thụ đặc biệt, giúp ô tô Việt có thể cạnh tranh với ô tô giá rẻ từ các nước trong khu vực ASEAN
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh
Các dòng xe siêu sang nhập từ Mỹ, Đức, Anh… thì thuế và phí rất cao, muốn lăn bánh phải bỏ thêm từ vài tỉ đến vài chục tỉ đồng. Chẳng hạn, với chiếc Rolls-Royce Cullinan có giá niêm yết tại Mỹ khoảng 7,4 tỉ đồng, thuế nhập khẩu 80% (xe dung tích trên 6.0L), đẩy giá xe sau thuế nhập khẩu lên 13,32 tỉ đồng.
Từ đây, thuế TTĐB cho loại xe từ 6.0L phải đóng 150% (19,98 tỉ đồng) trên giá xe đã cộng thuế nhập và cộng thêm 10% VAT. Tổng cộng chiếc Rolls-Royce Cullinan có giá tăng thành 36,63 tỉ đồng. Chưa hết, nếu cộng thêm các khoản phí trước bạ đóng tại Hà Nội là 12% hơn 4,2 tỉ đồng (của mức 36,63 tỉ đồng), phí bảo hiểm 5% và các loại phí khác… Như vậy, để lăn bánh chiếc siêu xe trên, người mua phải trả hơn 42 tỉ đồng, trong đó các khoản phí, thuế phí chiếm hơn 30 tỉ đồng.
Một nhà nhập khẩu xe hơi từ Mỹ, có showroom tại TP.HCM, cho biết: “Chính các loại thuế, phí cao ngất ngưởng khiến xe siêu sang, siêu xe thời gian qua về Việt Nam giảm hẳn. Phân khúc này không còn sôi động như thời điểm giữa năm 2016”.
Muốn bán rẻ cũng không dễ
Gánh nặng thuế, phí nên cho dù sau gần 2 năm Việt Nam chính thức bỏ thuế nhập khẩu xe hơi từ 30% về 0% từ các nước trong khu vực ASEAN (từ 1.1.2018), người tiêu dùng Việt Nam vẫn chưa sở hữu được xe giá rẻ. Thay vào đó, xe nhập từ Thái Lan và Indonesia đang “bao sân” thị trường ô tô hạng trung tại Việt Nam. Đặc biệt, VinFast, thương hiệu xe hơi Việt đưa ra chính sách “3 không”: không tính khấu hao, giá không tính lãi và không tính chi phí tài chính nhằm bán xe giá thấp cho người tiêu dùng Việt cũng bị nhiều loại phí “ngáng chân” ngay sau khi chiếc xe xuất xưởng.
Theo công bố từ VinFast, giá bán xe của hãng này đang chịu lỗ gần 300 triệu đồng cho mỗi chiếc Lux A2.0 bán ra, trong khi đó vẫn phải hoàn thành mọi nghĩa vụ thuế với nhà nước như các hãng xe khác trên thị trường. Cụ thể, hãng này đưa ra bảng tính chi tiết các khoản hình thành giá xe gồm chi phí sản xuất, chi phí bán hàng, marketing và các khoản thuế. Theo đó, giá thành (chi phí sản xuất + chi phí bán hàng, marketing) để sản xuất một chiếc Lux A2.0 là 980,6 triệu đồng. Tuy vậy, mức giá trước thuế hãng đưa ra là 713,7 triệu đồng. Như vậy, để sản xuất ra chiếc Lux A nói trên, VinFast đang chịu lỗ khoảng 267 triệu đồng.
Hiện tổng đầu tư cho dự án VinFast tính đến hết năm 2020 khoảng 97.408 tỉ đồng (4 tỉ USD). Tuy nhiên, tính riêng chi phí lãi vay hằng năm là 6.565 tỉ đồng và chi phí khấu hao là 4.600 tỉ, toàn bộ số tiền này chưa được tính vào giá thành xe Lux của hãng xe Việt này. Thực tế, mức giá “3 không” của xe Lux A2.0 ở thời điểm hiện tại thấp hơn so với mức hãng công bố khi ra mắt xe cách đây 1 năm (1,5 tỉ đồng, bao gồm VAT) do công ty đã nội địa hóa được nhiều linh kiện và tối ưu hóa các quy trình sản xuất…
Với giá bán hãng công bố ô tô Lux A là 713,7 triệu đồng, thuế TTĐB là 40% (đối với xe có dung tích động cơ dưới 2.0L) trên giá thành thêm 285,48 triệu đồng, đẩy giá sau thuế TTĐB của chiếc Lux A là 999,18 triệu đồng.
Cộng với thuế VAT 10%, xe này sau thuế sẽ có giá lên 1,09 tỉ đồng. Như vậy, dù không có thuế nhập khẩu thì chỉ hai loại thuế TTĐB và thuế VAT đã chiếm gần 54% giá xe sản xuất trong nước khi đến tay người tiêu dùng.
Không chịu lớn thì bảo hộ mãi làm gì?
Ông Nguyễn Minh Đồng, chuyên gia ô tô từ Công ty Devitec Consult – tư vấn công nghệ kỹ thuật Đức – Việt, nhận định chính sách duy trì thuế TTĐB và thuế VAT của Việt Nam nhằm bảo hộ ngành sản xuất ô tô trong nước đã kéo dài gần 30 năm qua.
Tuy nhiên đến nay Việt Nam vẫn chưa sản xuất được gì, kể cả những linh kiện bình thường như bố thắng, niềng xe… Ông Đồng đưa ra ví dụ, một chiếc ô tô ở Việt Nam giá bán thấp nhất cũng khoảng 350 triệu đồng thì cũng chiếc xe tương tự ở Malaysia giá chỉ chưa đến 150 triệu đồng, hay ở Ấn Độ chỉ khoảng 110 triệu đồng.
“Điều này cho thấy chính sách thuế, phí của Việt Nam đã khiến người tiêu dùng trong nước chịu thiệt. Đáng nói hơn, ngành công nghiệp ô tô phải được nhà nước ủng hộ nhưng phương pháp và chính sách ủng hộ thời gian qua chưa đúng. Nên tập trung đưa ra chính sách khuyến khích các đơn vị sản xuất linh kiện, phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành ô tô”, ông Đồng nhấn mạnh.
Chẳng hạn, với những linh kiện đòi hỏi kỹ thuật và nguồn vốn cao thì chỉ đánh thuế nhập khẩu thấp. Riêng các linh kiện kỹ thuật đơn giản, nguồn vốn đầu tư không cao thì tăng thuế nhập khẩu. Sau đó dần dần công nghiệp phụ trợ phát triển cũng như thu hút thêm các doanh nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư sản xuất ngay tại Việt Nam.
Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho rằng ngành công nghiệp ô tô trong nước đang chịu áp lực cạnh tranh cực kỳ cao. Việt Nam tham gia vào muộn, nên đòi hỏi trình độ phát triển đồng đều và nhiều khó khăn hơn.
Ông Doanh lấy ví dụ, trung bình một chiếc ô tô phải có 28.000 chi tiết. Chúng ta phải lựa chọn nên sản xuất cái gì và nhập cái gì, quan trọng là phải có chiếc ô tô giá thành rẻ cho người tiêu dùng Việt.
“Áp lực bội chi ngân sách khiến Bộ Tài chính không thể giảm thu thuế TTĐB với nhóm hàng xe cộ, cho dù theo quan điểm của nhiều người, mặt hàng đó không còn là xa xỉ nữa. Theo tôi, chúng ta nên sớm bỏ bảo hộ sản xuất ô tô trong nước, nhưng phải đánh giá nỗ lực của doanh nghiệp cố gắng nội địa hóa linh kiện để đánh giá đúng thuế TTĐB, giúp ô tô Việt có thể cạnh tranh với ô tô giá rẻ từ các nước trong khu vực ASEAN. Bất luận thế nào, phải giảm bớt các khoản thu thuế TTĐB trong cái rổ linh kiện lắp ráp thành chiếc xe. Một ngành công nghiệp không chịu lớn thì bảo hộ mãi làm gì”, ông Lê Đăng Doanh nói.
Chính sách bảo hộ chỉ áp dụng khi mang lại lợi ích thật sự cho người tiêu dùng và nền kinh tế. Nếu không mang lại lợi ích gì thì phải xem xét và thay đổi, thậm chí bãi bỏ ngay. Nếu giá giảm, người dân có thể tiếp cận sở hữu phương tiện này nhiều hơn cũng có thể đóng góp vào mức tăng trưởng của nền kinh tế nói chung.
Ông Nguyễn Minh Đồng
NGUYÊN NGA – MAI PHƯƠNG