Chúa Nhật XXX TN-B: Cuộc gặp gỡ đức tin
Tuần trước chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu đức tin là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Hôm nay, các bài Kinh Thánh, nhất là bài Tin Mừng, như muốn diễn tả từng chi tiết của cuộc gặp gỡ đức tin này có những yếu tố cụ thể như thế nào về phía con người, phía Thiên Chúa và cuối cùng là cả hai bên khi gặp được nhau.
Cuộc gặp gỡ đức tin
Hành Khất Kitô
Lời mở
Tuần trước chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu đức tin là cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Về phía Thiên Chúa, đó là một ơn ban Ngài trao cho con người để con người có thể mở lòng đón nhận chính Ngài cùng với tất cả những ân sủng để được thông phần vào đời sống kỳ diệu của Thiên Chúa. Về phía con người, đó là một sự cố gắng liên lỉ để con người vươn tới Thiên Chúa bằng tất cả khả năng của mình.
Hôm nay, các bài Kinh Thánh, nhất là bài Tin Mừng (x. Mc 10,46-52) như muốn diễn tả từng chi tiết của cuộc gặp gỡ đức tin này có những yếu tố cụ thể như thế nào. Chúng ta sẽ tìm hiểu những chi tiết đó về phía con người, phía Thiên Chúa và cuối cùng là cả hai bên khi gặp được nhau.
1. Những chi tiết cụ thể về phía con người
1.1. Trước hết, đức tin luôn là một hành động nhân linh ( x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo (GLHTCG), số 160) của con người cụ thể, rõ rệt, có tên tuổi, cha mẹ đàng hoàng, chứ không phải là một con người chung chung, bất định. Ở đây là Bartimê, con ông Timê. Trong các phép lạ khác, tác giả Tin Mừng ít khi nói đến tên của người được chữa lành.
Trong xã hội hiện nay, nhiều người chỉ muốn ẩn thân vào đám đông. Đi ra đường, họ dùng khăn to để bịt mặt, đeo kính râm, không phải chỉ để che bụi, che nắng nhưng còn che mặt để người khác không nhận ra mình. Trong cộng đồng ẩn danh, nhiều người sống nặc danh, dùng tên giả để không ai nhận ra họ và họ nghĩ rằng mình có thể làm bất cứ chuyện mờ ám, bất công, thất đức vì chắng ai nhìn rõ mặt mình. Họ không dám chịu trách nhiệm về hành động của họ.
Đức tin không phải như vậy. Đức tin là sự cố gắng vươn tới của từng người chúng ta đến Thiên Chúa: với tất cả tự do, ý thức, đồng thời kèm theo trách nhiệm của mình (x. GLHTCG, số 33) vì thế khi đọc kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa”.
1.2. Yếu tố thứ hai, đó là con người ý thức về tình trạng khốn khổ của mình và muốn vươn lên. Bartimê biết mình bị mù, anh hiểu được tình trạng nghèo túng, tầm thường, yếu đuối của mình. Anh không muốn mình cứ mãi mãi ngồi bất động bên vệ đường, sống nhờ vào lòng thương xót của người khác, muốn làm gì cũng phải nhờ ai đó giúp đỡ. Có ý thức mình nghèo túng, bất động, yếu đuối, tầm thường ta mới muốn tìm về nguồn sự sống, hạnh phúc, tình yêu, nguồn chân thiện mỹ là chính thiên Chúa.
Rất nhiều người trong thế giới hiện nay người ta không muốn tìm về với Thiên Chúa bởi vì người ta không ý thức về tình trạng sống của họ. Họ nghĩ mình sống mãi chứ không nghĩ đến cái chết sẽ tước đoạt tất cả những gì họ có. Hơn nữa, họ còn bằng lòng, thậm chí tự mãn, với danh lợi, tài năng, sắc đẹp và tất cả những gì họ đang có. Họ tưởng rằng những gì mình có được là do tài năng, bàn tay, khối óc của mình làm ra nên họ không tìm về với Thiên Chúa. Vì thế, họ không nhận được ơn đức tin.
Bartimê dùng lý trí của mình để tìm hiểu về Đức Giêsu Nazareth qua những câu chuyện người ta kể về Người, anh biết Người là Đấng Mêsia qua tước hiệu anh gọi Người là “con vua Đavit”, anh hy vọng Người sẽ cứu chữa anh khỏi tình trạng khốn khổ. Điều đó cũng gợi ý cho chúng ta cần tìm hiểu về Thiên Chúa, về Đức Giêsu Nazareth để biết Người là ai qua những cố gắng học hỏi của chúng ta.
1.3. Yếu tố thứ ba đó là anh ta dám kêu lên, “kêu to, trong khi đám đông quát nạt bảo anh ta im đi” (Mc 10,48). Trong cuộc sống, rất nhiều khi đám đông muốn chúng ta sống ẩn danh như họ, cũng hưởng thụ, tham nhũng, lừa dối, tàn ác như họ. Nếu chúng ta làm khác đi, là họ muốn loại trừ chúng ta. Đức tin chính là tiếng kêu to vượt trên đám đông để nói với Thiên Chúa, cụ thể là Đức Giêsu Kitô, để cầu nguyện, cầu xin với Người.
1.4. Yếu tố thứ tư đó là anh ta “vất bỏ áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu”. Đây là những hành động quyết liệt của con người muốn thoát ly khỏi tình trạng sống bám vào những gì riêng tư, ích kỷ như tấm áo choàng anh mù quấn quanh mình, vượt ra khỏi tình trạng ngồi yên bất động để tiến đến gần nguồn sự sống và chân thiện mỹ. Thực ra, ngay khi con người vừa nhỏm dậy, thì Chúa đã ở sát bên họ.
2. Những chi tiết cụ thể về phía Thiên Chúa
Mỗi hành động của con người trong cuộc gặp gỡ đức tin, dù nhỏ nhặt đến mấy, đều được Thiên Chúa đáp ứng.
2.1. Trước hết và trên hết, cuộc gặp gỡ đức tin là sáng kiến của Thiên Chúa, từ muôn thuở Ngài muốn đến với con người để cứu thoát con người, và qua đó cứu độ toàn thể vũ trụ, vì Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu. Vì thế, đức tin là ân sủng cao quý của Chúa ban mà không đòi hỏi con người bất cứ điều kiện gì.
Thiên Chúa ở đây không phải là một đấng thượng đế tối cao, thần linh xa vời theo sự tưởng tượng của con người mà là một Thiên Chúa cụ thể, có tên tuổi, gốc gác đàng hoàng. Đó là Đức Giêsu thành
2.2. Đức Giêsu đang đi trên đường cùng con người, với các môn đệ và đám đông, để dẫn họ về nguồn của sự sống và tình yêu, của chân thiện mỹ, của tất cả những gì con người mơ ước để thoát khỏi tình trạng hèn kém, khốn khổ, nhất thời, bị giới hạn và lệ thuộc của mình. Vì thế Đức Giêsu tuyên bố: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30); “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6); “Tôi đến để cho họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
2.3. Đức Giêsu nghe được lời kêu cứu của con người dù tiếng kêu ấy vang lên giữa đám đông hỗn loạn hay bị đe doạ bắt phải im lặng vì Người thấu hiểu lòng con người (Mt 12,25; Lc 11,17; Ga 6,64). Người muốn cứu độ tất cả vì tất cả được dựng nên nhờ Người và cho Người (Ga 1,3). Vì thế chúng ta hãy tin tưởng kêu cứu và đặt tất cả hy vọng vào Người.
2.4. Đức Giêsu kêu gọi và hỏi anh mù muốn Người làm gì cho anh. Khi kêu gọi con người hãy tin tưởng đến gần mình, Đức Giêsu muốn trao cho họ một sứ mạng đặc biệt và họ cần phải khám phá ra sứ mạng ấy để sống cho có ý nghĩa. Hơn nữa, khi hỏi như vậy không phải Người không biết điều họ cần, nhưng Người muốn cho cuộc gặp gỡ đức tin được hoàn toàn tự do, không bị áp lực về phía con người. Người muốn con người hãy có những ước vọng cao hơn thay vì chỉ xin Người những đồng bạc bố thí, cái bánh, con cá hay những ân huệ tạm thời.
3. Cuộc gặp gỡ giữa hai bên
3.1. Cuộc gặp gỡ đức tin đã hoàn thành ngay khi mắt anh mù mở ra để nhìn thấy Đức Giêsu, Người là ánh sáng cho trần gian để soi sáng tất cả những ai đang sống trong bóng tối của cuộc đời lệ thuộc, nghèo đói, buồn thảm, bất toàn và giúp họ cảm nhận được đời sống đầy màu sắc tươi đẹp, tự do, bình an, hạnh phúc của Thiên Chúa. Đó là kết quả của đức tin. Do đó, Đức Giêsu mới bảo anh: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh” (Mc 10,52).
Tuy nhiên, sau khi gặp được Đức Giêsu và được sáng mắt, sáng lòng, Bartimê đã nhận ra ngay sứ mệnh của mình là “để đi theo Người trên con đường Người đi”. Anh không về nhà ăn mừng với người thân, bè bạn hay chọn đời sống theo ý muốn riêng. Anh chọn Giêsu và đi theo Giêsu là con đường dẫn đến sự thật và sự sống, đến tình yêu và hạnh phúc vĩnh hằng để khi gắn bó với Giêsu, anh sẽ mang ơn đức tin đến cho người khác.
3.2. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người mù Bartimê là cuộc gặp gỡ đức tin của từng người chúng ta trong đời sống. Nhiều người cứ nghĩ rằng Chúa Giêsu sống cách đây 2000 năm, đã lên trời, chứ không nghĩ rằng Người đang cùng đi với mình trên đường đời. Người đang hiện thân nơi cha mẹ, vợ con, bạn bè, hàng xóm… và tất cả những ai mà chúng ta gặp gỡ trong đời. Nếu có được đôi mắt đức tin như Bartimê, ta sẽ nhìn thấy Người trong mọi người, mọi vật quanh ta và lúc nào ta cũng có thể gặp được Người. Bất kỳ hành động nào ta làm cho con người, dù là con người nhỏ mọn nhất, là ta làm cho chính Thiên Chúa (x. Mt 25,31-46).
Lời kết
Vì thế, trong Năm Đức Tin này, Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta thể hiện lại những chi tiết cụ thể trong cuộc gặp gỡ đức tin để có thể truyền bá đức tin cho người khác.