Bệnh tim, phổi, thận do giun lươn có thể bị nhiễm từ vật nuôi
Bệnh tim, phổi, thận do giun lươn có thể bị nhiễm từ vật nuôi
Giun lươn lan toả ấu trùng đi đến nhiều cơ quan (phổi, tim, thận), hệ thống thần kinh, trong đó có loài giun lươn gây bệnh ở khỉ, chó nhưng đôi khi còn gây bệnh ở người.
Theo hướng dẫn mới nhất của Bộ Y tế về chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh giun lươn, bệnh giun lươn đường ruột (Strongyloidiasis) thường gặp ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới như Việt Nam.
Người bị nhiễm bệnh do ấu trùng giun lươn xâm nhập qua da đi vào cơ thể khi tiếp xúc với đất bị ô nhiễm.
Vật nuôi (chó) có thể là nguồn lây nhiễm giun lươn cho người, gây bệnh ở người nếu không được điều trị
BỘ Y TẾ |
Ngoài ra, người có thể nhiễm bệnh qua cơ chế tự nhiễm do giun lươn cái đẻ trứng, sau đó trứng phát triển thành ấu trùng hoặc đẻ ấu trùng và thành giun trưởng thành ngay trong ruột. Người có suy giảm miễn dịch dễ bị nhiễm bệnh.
Bệnh có biểu hiện các triệu chứng về tiêu hoá, hô hấp, thần kinh… Trong trường hợp bị nhiễm nặng, bệnh nhân có thể tử vong.
Dễ dàng tái nhiễm
Tác nhân gây bệnh giun lươn đường ruột thường gặp là do loài Strongyloides stercoralis, ngoài ra có loài giun lươn Strongyloides fuelleborni thường gây bệnh ở khỉ, vượn, chó nhưng đôi khi gây bệnh ở người.
Người là vật chủ (đối tượng bị thiệt hại, nơi ký sinh, cư trú) của giun lươn, ngoài ra có thể có ở một số động vật khác như khỉ, vượn, chó…
Ấu trùng giun lươn xâm nhập qua da, niêm mạc vào trong cơ thể. Trong cơ thể, giun cái đẻ trứng, trứng nở thành ấu trùng hoặc đẻ ấu trùng và phát triển thành giun trưởng thành ngay trong ruột gây bệnh cho người.
Tất cả mọi người đều có nguy cơ nhiễm bệnh khi có tiếp xúc với đất, cát có ấu trùng giun lươn. Bệnh có thể dễ dàng tái nhiễm.
Nhận biết triệu chứng
Triệu chứng thường gặp ở người nhiễm giun lươn là rối loạn tiêu hóa, trong đó tiêu chảy là triệu chứng thường gặp nhất, có thể kéo dài trên 2 tuần và xen kẽ đợt táo bón.
Đau bụng (thường đau ở vùng thượng vị, hạ sườn phải kèm theo buồn nôn và nôn).
Dị ứng (ngứa, nổi mẩn đỏ tại vị trí xâm nhập qua da hoặc nổi mề đay kéo dài rải rác toàn thân).
Ngoài ra, có thể có các triệu chứng như: mệt mỏi, biếng ăn, sút cân, thiếu máu, viêm ruột, viêm loét tá tràng, đại tràng, xuất huyết tiêu hóa, viêm khớp, rối loạn nhịp tim, hội chứng thận hư và ho, hen phế quản.
Thể bệnh nặng bao gồm hội chứng tăng nhiễm giun lươn và nhiễm giun lươn lan toả thường gặp ở bệnh nhân có suy giảm miễn dịch, dùng corticosteroid kéo dài hay thuốc ức chế miễn dịch và thường đi kèm với các bệnh khác như: nhiễm khuẩn, viêm phổi tắc nghẽn mạn tính, suy thận mạn, bệnh ác tính, tiểu đường, suy dinh dưỡng.
Bệnh giun lươn lan tỏa ấu trùng xâm nhập vào nhiều cơ quan như phổi, gan, tim, thận, các cơ quan nội tiết và hệ thống thần kinh. Bệnh thường nặng và dẫn đến tử vong cao.
Ấu trùng giun lươn cũng gây viêm ruột, xuất huyết tiêu hóa hoặc thủng ruột dẫn đến viêm phúc mạc.
Về thần kinh, bệnh nhân dễ bị kích thích, suy nhược thần kinh, có thể bị viêm não – màng não, áp xe não, động kinh, rối loạn tri giác.
Giun lươn lạc chỗ có thể gây những triệu chứng viêm phổi, áp xe phổi, hen phế quản, gây viêm phổi mô kẽ, xuất huyết nhu mô, chấm xuất huyết tại các phế nang, suy hô hấp.
Ấu trùng giun lươn gây phì đại hạch, viêm nội tâm mạc, viêm tụy, suy gan, suy thận, đau khớp, viêm khớp, đau cơ, phù toàn thân.
Theo Bộ Y tế, trường hợp bệnh nghi ngờ nhiễm giun lươn là người có tiền sử tiếp xúc trực tiếp với đất hoặc sống trong vùng có dịch lưu hành; bệnh nhân có dấu hiệu lâm sàng hướng tới bệnh giun lươn.
Trường hợp bệnh xác định là các ca bệnh nghi ngờ và có một trong hai xét nghiệm: xét nghiệm phân tìm thấy ấu trùng giun lươn trong phân, dịch tá tràng, trong dịch rửa phế quản hoặc đờm hoặc xét nghiệm ELISA kháng thể kháng giun lươn dương tính.
Bệnh nhân cần được chẩn đoán bệnh chính xác, phân biệt với viêm loét dạ dày tá tràng; chẩn đoán phân biệt với ấu trùng giun móc; bệnh ấu trùng giun đầu gai.
Giun lươn là một loại giun tròn nguy hiểm nhất trong các loại ký sinh trùng đường tiêu hóa ở người vì chúng có thể tự nhân lên trong cơ thể (do quá trình tự nhiễm). Ở nước ta, tỷ lệ nhiễm giun lươn và tái nhiễm khá cao, ước chiếm khoảng 1 – 2% dân số.
Để phòng nhiễm giun lươn, mỗi người và cộng đồng cần có những biện pháp vệ sinh môi trường; quản lý tốt phân, nước, rác; vệ sinh cá nhân, không phóng uế bừa bãi.
Có biện pháp phòng hộ trong lao động và trong sinh hoạt hằng ngày, đặc biệt những người thường tiếp xúc với đất (nên mang găng tay, đi giày dép, đi ủng).
Người có những biểu hiện nghi ngờ bị nhiễm giun lươn nên đến khám chuyên khoa ký sinh trùng để được xét nghiệm xác định bệnh, chữa trị càng sớm càng tốt.
(Viện Sốt rét – ký sinh trùng – côn trùng T.Ư)
LIÊN CHÂU
TNO