24/11/2024

Nội dung Tông huấn “Giáo Hội tại Trung Đông”

Văn kiện này được soạn thảo dựa trên 44 đề nghị chung kết của Thượng HĐGM và mời gọi Giáo hội Công giáo tại Trung Đông làm cho tình hiệp thông trong nội bộ của mình được sinh động, cởi mở đối với với người Do Thái và Hồi giáo. Đây là một tình hiệp thông, hiệp nhất, cần đạt tới trong những bối cảnh khác biệt về địa lý, tôn giáo, văn hoá, xã hội chính trị ở Trung Đông. Đồng thời, ĐTC tái kêu gọi bảo tồn và thăng tiến các nghi lễ của các Giáo hội Đông phương, vốn là gia sản của toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô.

Nội dung Tông huấn “Giáo Hội tại Trung Đông”

 

HARISSA – Tông huấn “Giáo Hội tại Trung Đông”, được ấn hành bằng các thứ tiếng chính và đặc biệt bằng tiếng Ảrập và Dothái, ngoài phần lời tựa, nhập đề và kết luận, còn có 3 phần.

Văn kiện này được soạn thảo dựa trên 44 đề nghị chung kết của Thượng HĐGM và mời gọi Giáo hội Công giáo tại Trung Đông làm cho tình hiệp thông trong nội bộ của mình được sinh động, cởi mở đối với với người Do Thái và Hồi giáo. Đây là một tình hiệp thông, hiệp nhất, cần đạt tới trong những bối cảnh khác biệt về địa lý, tôn giáo, văn hoá, xã hội chính trị ở Trung Đông. Đồng thời, ĐTC tái kêu gọi bảo tồn và thăng tiến các nghi lễ của các Giáo hội Đông phương, vốn là gia sản của toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô.

Phần I của Tông huấn đề cập đến bối cảnh các tín hữu Kitô tại Trung Đông, trong đó nhiều người bị thiệt mạng, nạn nhân của sự mù quáng của con người, sống trong lo sợ và tủi nhục. Dường như không có những gì cản ngăn được tội ác của Cain. Tông huấn nhắc lại lập trường của Toà Thánh về các cuộc xung đột trong vùng, về thành Jerusalem và các nơi thánh. Văn kiện tái kêu gọi hoàn cải và hoà bình: hoà bình này không phải là vắng bóng xung đột, nhưng là an bình nội tâm và gắn liền với công lý, vượt thắng mọi sự phân biệt chủng tộc, phái tính và giai cấp; sống tinh thần tha thứ trong lĩnh vực riêng tư và cộng đồng.

Phần I của Tông huấn cũng đề cập đến đời sống Kitô và phong trào đại kết, việc đối thoại liên tôn với người Do Thái và Hồi giáo, lên án việc lạm dụng tôn giáo vào những cuộc xung đột không thể biện minh được đối với một tín hữu chân chính. Văn kiện khuyến khích các tín hữu Kitô quý chuộng Hồi giáo là tôn giáo đa số trong vùng, nhưng đồng thời cũng than phiền rằng cả hai bên đã sử dụng những khác biệt đạo lý như cái cớ để biện minh, nhân danh tôn giáo, cho những hành vi bất bao dung, kỳ thị, gạt ra ngoài lề, thậm chí cả những hành vi bách hại. ĐTC cũng kêu gọi các xã hội Ảrập đi xa hơn sự bao dung để tiến tới tự do tôn giáo.

Văn kiện này nhắc đến 2 thực tại: trước tiên là đặc tính đời với những hình thức nhiều khi có tính chất cực đoan; tiếp đến là trào lưu cực đoan bạo động có liên hệ tới tôn giáo. Tông huấn cổ vũ đặc tính đời, sự trung lập của nhà nước về tôn giáo một cách lành mạnh, chấp nhận sự cộng tác giữa chính trị và tôn giáo trong sự tôn trọng lẫn nhau. Tông huấn chống lại chủ nghĩa tôn giáo cực đoan, dùng vũ lực để cướp chính quyền và không am hiểu tôn giáo của người khác, chà đạp lương tâm và tôn giáo của tha nhân, vì lý do chính trị. Vì thế, ĐTC tha thiết kêu gọi các vị lãnh đạo tôn giáo ở Trung Đông, qua gương sáng và giáo huấn, hãy làm tất cả những gì có thể để loại trừ đe doạ bạo lực dựa trên tôn giáo gây chết chóc cho tín đồ các tôn giáo.

Tông huấn phê bình một khía cạnh khác trong thực tại xã hội ở Trung Đông, tố giác nhiều hình thức kỳ thị phụ nữ. ĐTC viết: “Trong khi nhìn nhận huynh hướng bẩm sinh của nữ giới là yêu thương và bảo vệ sự sống con người, và trong khi ca ngợi sự đóng góp đặc thù của nữ giới cho nền giáo dục, săn sóc sức khoẻ, các hoạt động từ thiện và tông đồ, tôi tin rằng phụ nữ phải nắm giữ và phải được để cho nắm giữ vai trò lớn hơn trong đời sống công cộng và Giáo Hội”.

Tông huấn cũng đề cập đến vấn đề các tín hữu Kitô xuất cư khỏi Trung Đông. Một Trung Đông không còn hoặc chỉ còn rất ít Kitô hữu thì không còn là Trung Đông nữa. Vì thế, ĐTC kêu gọi các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo tránh những chính sách hoặc chiến lược biến Trung Đông thành một màu sắc, không còn phản ánh thực tại con người và lịch sử nữa.

ĐTC cũng mời gọi các vị chủ chăn của các Giáo hội Công giáo Đông phương giúp các linh mục và tín hữu của mình ở hải ngoại hãy giữ liên lạc với gia đình và Giáo Hội nguyên gốc của họ. Ngoài ra, ngài kêu gọi các vị chủ chăn của các giáo phận đón nhận các tín hữu Công giáo Đông phương hãy cho họ được cư hội cử hành phụng vụ theo truyền thống của họ.

Phần II của Tông huấn ngỏ lời với một số thành phần chủ yếu của Giáo hội Công giáo, từ các vị Thượng phụ các Giáo hội Công giáo tự quản, cho đến các giám mục, linh mục và chủng sinh, những người sống đời thánh hiến và giáo dân, các gia đình, người trẻ và trẻ em. Ngài gửi đến họ những lời nhắn nhủ thích hợp với hoàn cảnh hiện nay.

– Trong phần III, Tông huấn đề cập đến những chủ đề như:

* Lời Chúa là linh hồn và là nguồn mạch hiệp thông và chứng tá

* Phụng vụ và đời sống bí tích

* Cầu nguyện và hành hương

* Rao giảng Tin Mừng và bác ái: sứ mạng của Giáo Hội

* sau cùng là việc huấn giáo và đào tạo theo tinh thần Kitô

– Trong phần kết luận Tông huấn, nhân danh Thiên Chúa, ĐTC kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo không những thoa dịu nỗi đau khổ của tất cả những người đang sống tại Trung Đông, nhưng còn loại trừ những nguyên nhân gây ra những đau khổ ấy, làm tất cả những gì có thể để đạt tới hoà bình. Đồng thời, các tín hữu Công giáo cũng được nhắn nhủ củng cố và sống tình hiệp thông với nhau, mang lại sức sinh động cho việc mục vụ. Thái độ thờ ơ nguội lạnh là điều làm phật lòng Thiên Chúa”, vì thế, các tín hữu Kitô tại Trung Đông, Công giáo và các hệ phái khác, hãy đoàn kết và can đảm làm chứng về Chúa Kitô. Chứng tá này không phải là dễ dàng, nhưng là điều mang lại sự phấn khởi”.