23/12/2024

Kết nối TP.HCM và ĐBSCL bằng phát triển kinh tế biển

Kết nối TP.HCM và ĐBSCL bằng phát triển kinh tế biển

Vùng ĐBSCL lâu nay nổi tiếng với vựa lúa, lương thực, du lịch “miệt vườn”… nhưng bên cạnh đó, vẫn còn nhiều tiềm năng kinh tế biển chưa được khai thác hết.

 

 

Tiềm năng to lớn

Ngày 4.11, Viện Sinh học nhiệt đới TP.HCM phối hợp Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển, Viện Nghiên cứu kinh tế xây dựng và đô thị… tổ chức hội thảo “Phát huy tiềm năng kinh tế biển ĐBSCL”.

Tại hội nghị, TS Nguyễn Văn Tú, Phó viện trưởng Viện Sinh học nhiệt đới, phân tích: “ĐBSCL với hơn 700 km bờ biển và trên 360.000 km2 vùng biển, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Biển có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh, là cửa ngõ giao lưu quốc tế và là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Biển và tiềm năng về tài nguyên có nhiều lợi thế phát triển. Tuy nhiên, hiện nay biển đang có nhiều thách thức, như ô nhiễm và cạn kiệt nguồn tài nguyên, biến đổi khí hậu và nước biển dâng; việc chưa quan tâm đúng mức về nguồn nhân lực để trở thành nhân tố then chốt nhằm khai thác, phát triển, mở ra không gian phát triển mới cho ĐBSCL để đồng bằng thực sự hướng ra biển và giàu lên từ biển”.

Kết nối TP.HCM và ĐBSCL bằng phát triển kinh tế biển - ảnh 1
Vùng ĐBSCL còn nhiều tiềm năng kinh tế chưa được khai thác hiệu quả  Q.T

Theo TS Nguyễn Văn Tú: “ĐBSCL có vị trí địa kinh tế, địa chiến lược quan trọng, hội đủ những yếu tố, tiềm năng, thế mạnh của kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển để trở thành một trong những vùng kinh tế trọng điểm của khu vực và cả nước”.

PGS-TS Phạm Thanh Lưu (Viện Sinh học nhiệt đới) nhận định: Vành đai ven biển tiếp giáp ĐBSCL rất giàu nguồn lợi thủy sản, có tính đa dạng sinh học cao. Đặc biệt, có 2 khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang – với diện tích hơn 1,1 triệu ha, được xem là khu dự trữ lớn nhất Đông Nam Á và Khu dự trữ sinh quyển

Mũi Cà Mau – có diện tích 371.506 ha. Theo nghiên cứu, vùng biển và ven biển này có đến 260 loài cá được ghi nhận và rất nhiều loại nhuyễn thể, giáp xác sinh sống. Ngoài nguồn lợi sinh học, vùng biển ĐBSCL còn có tiềm năng lớn trong vận tải biển, còn nhiều hứa hẹn với các tài nguyên khoáng sản chưa khai thác, đặc biệt là dầu khí.

Bên cạnh đó, đây chính là những tiềm năng, thế mạnh để ĐBSCL phát triển du lịch nông nghiệp, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến với vùng châu thổ xanh tươi, trù phú này. Đặc biệt, các đặc sản nổi tiếng của ĐBSCL có thể tạo thành các chuỗi liên kết toàn cầu để thu hút khách du lịch quốc tế đến với vùng châu thổ hạ lưu sông Mê Kông.

Mặt khác, theo đại diện Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển, việc phát triển du lịch nông nghiệp gắn với kinh tế biển tại ĐBSCL hiện còn không ít khó khăn, thách thức. Đó là kiến thức và kỹ năng làm du lịch của người dân địa phương còn hạn chế; kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ du lịch chưa được đầu tư phát triển, nhất là hệ thống giao thông nông thôn, bãi đậu xe, các cơ sở dịch vụ du lịch… Bên cạnh đó, người dân ĐBSCL vốn quen sống dựa vào tự nhiên, sản xuất nhỏ lẻ, mức thu nhập không cao nên nguồn vốn đầu tư cho du lịch nông nghiệp của các hộ dân có hạn.

Th.S Nguyễn Võ Nhất Duy, Chủ nhiệm CLB Trí thức trẻ Bến Tre, chia sẻ: “Tại Bến Tre, ngoài sản xuất nông nghiệp với các đặc sản xứ dừa còn có vùng biển có thể khai thác du lịch. Gần đây nhiều mô hình homestay đã xuất hiện với tour ẩm thực và tham quan đê biển, thu hút rất nhiều du khách trẻ trải nghiệm, khám phá. Tuy nhiên, cũng như các mặt hạn chế đã được phân tích, người dân nơi đây còn chưa được trang bị kỹ năng dịch vụ, việc kinh doanh tự phát nên phục vụ chưa được chu đáo. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông chưa thuận lợi, việc đi lại khó khăn nên thu hút khách chưa được hiệu quả”.

 

Cần chính sách để nâng cấp hạ tầng

Theo nhiều chuyên gia kinh tế, với vị thế là vùng trọng điểm số 1 về lương thực, thực phẩm của cả nước, được mệnh danh là “vựa lúa”, “vựa trái cây”, “vựa tôm cá” của VN, ĐBSCL hoàn toàn có thể đi theo con đường phát triển dịch vụ du lịch gắn với nông nghiệp – nông thôn nhằm khai thác những tiềm năng, thế mạnh vốn có của mình. Phát triển du lịch nông nghiệp ở ĐBSCL không chỉ có ý nghĩa đối với du lịch mà còn có ý nghĩa đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; đồng thời còn kéo theo sự phát triển các ngành dịch vụ như vận chuyển, viễn thông, thương mại…

ĐBSCL có vị trí địa kinh tế, địa chiến lược quan trọng, hội đủ những yếu tố, tiềm năng, thế mạnh của kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển để trở thành một trong những vùng kinh tế trọng điểm của khu vực và cả nước.

TS Nguyễn Văn Tú (Phó viện trưởng Viện Sinh học nhiệt đới)

Kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu kinh tế xây dựng và đô thị cho thấy các địa phương ở ĐBSCL đã liên kết tạo thành tuyến du lịch sinh thái cộng đồng với nhiều sản phẩm đặc trưng. Đơn cử như thưởng thức các loại trái cây đặc sản, đi đò trên kênh rạch, nghe đờn ca tài tử, trải nghiệm ẩm thực dân dã, sản phẩm làng nghề thủ công mỹ nghệ, tìm hiểu văn hóa truyền thống của người dân vùng sông nước Nam bộ, các dịch vụ tát mương bắt cá, tham quan cù lao bằng xe thô sơ…

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển du lịch sinh thái, ĐBSCL đang đối diện những vấn đề ô nhiễm môi trường từ hoạt động du lịch, suy giảm tài nguyên và sự tác động của biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng nông thôn như đường sá, nước ngọt, nước sạch phục vụ du lịch còn thiếu; các sản phẩm du lịch chủ yếu dựa vào thiên nhiên, khai thác những gì sẵn có mà thiếu sự đầu tư dài hạn, liên kết; đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, nguồn nhân lực du lịch và cơ chế điều phối, liên kết vùng, liên kết chuỗi giá trị ngành du lịch còn hạn chế.

Hiện nay, không gian du lịch vùng ĐBSCL chia thành 6 tiểu vùng sinh thái và 2 cụm du lịch phía tây và phía đông.

Cụm phía tây (Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Ðồng Tháp, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau) định hướng khai thác sản phẩm du lịch đặc trưng là nghỉ dưỡng biển đảo, sinh thái, sông nước, chợ nổi và tìm hiểu văn hóa, di tích lịch sử, lễ hội.

Cụm phía đông (Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh) khai thác sản phẩm đặc trưng về nghiên cứu đời sống sông nước, miệt vườn tham quan làng nghề, các di tích lịch sử và homestay.

PGS-TS Nguyễn Ngọc Vinh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển, kiến nghị: “Để phát triển kinh tế sông, vùng ĐBSCL cần đầu tư hạ tầng phát triển giao thông thủy nội địa, như các bến cảng, bến thủy nội địa, nạo vét, khơi thông các luồng tuyến phục vụ vận tải hành khách, hàng hóa kết hợp với du lịch; có kế hoạch sử dụng nguồn nước hiệu quả, hợp lý trong sinh hoạt, sản xuất; sản xuất nông nghiệp theo hướng xanh, hữu cơ, giảm sử dụng phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật để giảm ô nhiễm nguồn nước. Các địa phương chia sẻ thông tin, tăng cường liên kết bảo vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nước mặt và nước ngầm; quan tâm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển các dịch vụ logistics ở các sông lớn và các dịch vụ hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn… Tăng cường đầu tư hệ thống giao thông, tạo sự kết nối giữa các tỉnh trong vùng, liên vùng, liên kết giữa các tỉnh Đông Nam Bộ, nhất là TP.HCM với ĐBSCL; cần ban hành cơ chế hỗ trợ phát triển ĐBSCL, ưu tiên các lĩnh vực, như năng lượng tái tạo, hạ tầng kinh tế – xã hội, môi trường…nhằm khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa những tiềm năng sẵn có của vùng”.

 

QUANG THUẦN

YNO