23/11/2024

Hồi sinh bản sắc đô thị sông nước

Hồi sinh bản sắc đô thị sông nước

Sông Sài Gòn là nhân chứng lịch sử về sự phát triển và hình thành của Sài Gòn – TP.HCM.

 

 

Theo nghiên cứu của kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng, Sài Gòn 300 năm trước, từ khởi thủy đã là một đô thị nằm giữa lòng sông nước với hệ thống kênh rạch chằng chịt. Mở đất về phương Nam, chúa Nguyễn chọn Bến Nghé để xây dựng doanh trại quân đội đầu tiên khi vào Sài Gòn. Là vùng đất thấp, Sài Gòn có lợi thế là sông ngòi chằng chịt có thể liên kết ra biển lớn, với các vùng miền Đông Nam bộ, Tây Nam bộ, giao thương đường thủy rất tốt nên người dân mới chọn nơi đây là vùng đất định cư, để rồi sau này người Pháp cũng lấy Sài Gòn để xây dựng nên những xưởng đóng tàu, bến cảng lớn.

Hồi sinh bản sắc đô thị sông nước - ảnh 1
Dự án cầu Thủ Thiêm 2  NGỌC DƯƠNG

Trong Gia Định thành thông chí, nhân sĩ Trịnh Hoài Đức viết: “Ở Gia Định, chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở, hoặc để đi chợ, hoặc để đi thăm người thân thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán rất thuận lợi. Ghe thuyền chật sông, ngày đêm đi lại không ngớt”, ông Dũng dẫn chứng và khẳng định Sài Gòn có được sự phát triển như ngày hôm nay, cũng chính nhờ những bến cảng, giao thương đường thủy thời đó.

Chỉ rõ hơn về địa thế khởi nguồn, PGS-TS Nguyễn Hồng Thục, Viện Nghiên cứu định cư và con người, cho biết do có những gò đất cao nằm giữa các sông rạch nên Sài Gòn là nơi tụ cư sớm nhất, lại nằm giữa đầu mối giao thông giữa đông – tây, Cao Miên và cao nguyên, mà hình thành đô thị một cách thuận lợi. Theo đó, gò đất cao nhất, được người Việt khai phá đầu tiên, đặt tên là Tân Khai (đỉnh là khu vực đài truyền hình ngày nay), trải dài từ rạch Thị Nghè đến ngã ba sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé (còn gọi là kênh Tàu Hủ). Từ gò Tân Khai nhìn ra bốn hướng đều là các ao hồ, kênh rạch, sông suối đan xen chằng chịt với rừng rẫy, gò đồi. Người Sài Gòn xưa đi lại phần lớn bằng ghe thuyền trên hai con kênh lớn Thị Nghè và Bến Nghé để ra sông mẹ.

Mảnh đất Sài Gòn đã lớn lên với chính bản sắc sông nước của mình, làm nên một di sản cảnh quan đô thị nước: đất ngập nước, rừng sác, kênh rạch, đầm hồ, xưởng tàu, bến cảng… với hằng hà sa số các hoạt động trên những con nước, là văn hóa cội nguồn của đô thị cho đến nay. Cùng với yêu cầu của sự phát triển giao thương giữa “Hòn ngọc Viễn Đông” với các nước láng giềng trong cả vùng Đông Nam Á, các con rạch nhỏ đã từng bước được xây sửa, mở rộng và nối dài thành kênh đào lớn để tiện cho giao thông thủy.

Tuy nhiên cũng từ đó, xu hướng bê tông hóa bắt đầu lan rộng. Đầu thế kỷ 20, nhiều con kênh thông với sông Sài Gòn đã bị san lấp để làm các đại lộ và đường phố rộng lớn. Trong khoảng 20 năm tiếp theo, cả khu ao hồ sình lầy rộng lớn (đầm Boresse) đã được xây dựng thành khu phố chợ Bến Thành và nhà ga xe lửa trung tâm. Năm 1928, chợ Bình Tây ra đời cũng trên nền một xưởng đóng thuyền trên kênh Hàng Bàng, đánh dấu thời kỳ mở rộng Sài Gòn về hướng tây nam. Trong nhiều thập niên sau đó, một loạt ao hồ, rạch suối lớn nhỏ ở khắp Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định dần dần bị lấp làm đất ở. Đô thị phát triển nhanh chóng, dân số bùng nổ, dọc hai tuyến kênh lớn của TP là kênh Bến Nghé – Tàu Hủ và Nhiêu Lộc – Thị Nghè đã bị ô nhiễm nghiêm trọng và từng đứng trước nguy cơ bị bê tông hóa, chất thải thêm “núi” cao ốc chọc trời.

“Trải qua bao thăng trầm, hai con kênh lớn nhất TP đang trở thành niềm hy vọng duy nhất vực dậy bản sắc sông nước của Sài Gòn, ngay tại trung tâm lịch sử TP. Chúng có thể vừa là cảnh quan lịch sử, vừa là giao thông thủy và là môi trường trong lành như lá phổi TP. Do đó, cùng với công tác quy hoạch, đầu tư và xây dựng hai bên kênh, cần nhất là có tầm nhìn khai thác quỹ đất bao quanh nó thành một cấu trúc không gian xanh đậm bản sắc văn hóa – lịch sử sông nước của Sài Gòn. Muốn vậy phải chú trọng vào chức năng cảnh quan, công cộng, đi bộ và kết nối các công trình lịch sử. Tránh việc chỉnh trang để chất thải nhà cao tầng, chất thải dân cư phá nát cơ hội phát triển TP xanh và cơ hội “thở sạch” của Sài Gòn”, bà Nguyễn Hồng Thục lưu ý.

HÀ MAI

TNO