26/12/2024

Xây dựng cao tốc vùng ĐBSCL quá chậm so với quy hoạch

Xây dựng cao tốc vùng ĐBSCL quá chậm so với quy hoạch

Tiến độ đầu tư xây dựng hệ thống đường cao tốc vùng ĐBSCL còn chậm so với quy hoạch được duyệt.
ĐBSCL có nền địa chất phức tạp, địa hình chia cắt bởi nhiều sông, kênh, rạch nên phải xử lý nền đất yếu, xây dựng nhiều cầu, dẫn đến suất đầu tư cho các công trình lớn, thời gian thực hiện kéo dài /// Ảnh: Đình Tuyển
ĐBSCL có nền địa chất phức tạp, địa hình chia cắt bởi nhiều sông, kênh, rạch nên phải xử lý nền đất yếu, xây dựng nhiều cầu, dẫn đến suất đầu tư cho các công trình lớn, thời gian thực hiện kéo dài  ẢNH: ĐÌNH TUYỂN
Mới đây, trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết đến nay cả nước có 1.139 km đường cao tốc đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, trong đó khu vực phía bắc có 898 km, miền Trung có 127 km, khu vực Đông Nam bộ có 74 km và khu vực ĐBSCL có 40 km.
Nếu tính cả 80 km đoạn từ Cao Lãnh – Vàm Cống – Rạch Sỏi vừa hoàn thành cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn đường cao tốc, khu vực ĐBSCL có khoảng 120 km đường cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn cao tốc đã hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Trong khi đó, theo quy hoạch phát triển mạng lưới cao tốc Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến 2030, vùng ĐBSCL sẽ hình thành 5 trục cao tốc với tổng chiều dài 998 km với lộ trình đầu tư đến năm 2020 thì hoàn thành khoảng 349 km. Như vậy, tiến độ đầu tư xây dựng hệ thống đường cao tốc vùng ĐBSCL còn chậm so với quy hoạch được duyệt.
Về nguyên nhân, Phó thủ tướng đánh giá do đặc điểm khu vực có nền địa chất phức tạp, địa hình chia cắt bởi nhiều sông, kênh, rạch nên phải xử lý nền đất yếu, xây dựng nhiều cầu, dẫn đến suất đầu tư cho các công trình lớn, thời gian thực hiện kéo dài. Nguồn vốn đầu tư công trong thời gian vừa qua bố trí cho ngành giao thông còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu; nguồn vốn vay ODA ngày càng kém ưu đãi. Thu hút đầu tư theo hình thức PPP (công tư hợp tác) gặp nhiều khó khăn.
“Chính phủ, Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ GTVT và các cơ quan liên quan rà soát, điều chỉnh quy hoạch một cách hợp lý; tập trung hoàn thành các dự án đang triển khai như tuyến Trung Lương – Mỹ Thuận, cầu Mỹ Thuận 2, tuyến Mỹ Thuận – Cần Thơ. Đồng thời ưu tiên nguồn lực trong kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021 – 2025, tích cực kêu gọi đầu tư theo hình thức PPP để phấn đấu đầu tư thông tuyến cao tốc Bắc – Nam phía đông cũng như các tuyến cao tốc trục ngang khu vực ĐBSCL”, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng khẳng định.
Trước đó, Bộ GTVT cũng đề xuất xây dựng kế hoạch đầu tư 7 tuyến cao tốc ở khu vực ĐBSCL gồm: Cần Thơ – Cà Mau, Chơn Thành – Đức Hòa, Đức Hòa – Mỹ An, Mỹ An – Cao Lãnh, An Hữu – Cao Lãnh (thuộc tuyến cao tốc 2 Hồng Ngự – Trà Vinh), Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng, Hà Tiên – Rạch Giá – Bạc Liêu. 7 tuyến cao tốc này có tổng vốn đầu tư 64.554 tỉ đồng, sẽ được phân kỳ đầu tư, trong đó nhu cầu vốn trong giai đoạn 2021 – 2025 khoảng 37.272 tỉ đồng.
TS Dương Như Hùng, Khoa Quản lý công nghiệp – Trường ĐH Bách khoa TP.HCM, nhận định vùng kinh tế phía nam đã ì ạch quá lâu trong bài toán hạ tầng. Nếu mạng lưới 7 tuyến cao tốc tại ĐBSCL được triển khai và hình thành theo đúng kế hoạch, giai đoạn 2025 – 2030, khu vực vùng kinh tế trọng điểm phía nam sẽ có một cuộc “lột xác”, thay đổi rất lớn về đô thị và kinh tế.
“Chi phí logistics giảm, các doanh nghiệp, nhà sản xuất sẽ tăng lợi thế cạnh tranh, tiếp cận thị trường xuất khẩu dễ dàng hơn, người dân cũng sẽ hưởng lợi lớn khi chi phí đi lại, giá cả hàng hóa giảm. Đặc biệt trong giai đoạn hậu Covid-19, các nước đang có xu hướng chuyển dịch đầu tư, vùng kinh tế trọng điểm phía nam sẽ có lợi thế thu hút vốn đầu tư nước ngoài rất lớn nếu nhanh chóng giải quyết bài toán giao thông”, TS Dương Như Hùng nhìn nhận.
H.MAI
TNO