Thị trường điện cạnh tranh đang đúng lộ trình
Thị trường điện cạnh tranh đang đúng lộ trình
Bộ Công thương dự kiến trong giai đoạn từ 2022 – 2024, khách hàng sử dụng điện được mua điện trên thị trường điện giao ngay và từ sau năm 2024 sẽ được lựa chọn đơn vị bán lẻ điện.
Theo đề án đề xuất mô hình thị trường bán lẻ điện cạnh tranh mà Bộ Công thương vừa phê duyệt, dự kiến trong giai đoạn từ 2022 – 2024, khách hàng sử dụng điện được mua điện trên thị trường điện giao ngay và sau năm 2024 sẽ được lựa chọn đơn vị bán lẻ điện.
Đó là một trong những nội dung đáng chú ý tại báo cáo của Bộ Công thương chuẩn bị cho phiên giải trình trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội diễn ra sáng nay (7.9).
EVN không còn là đơn vị mua buôn điện duy nhất
Báo cáo về thị trường điện cạnh tranh, Bộ Công thương cho hay “đang triển khai theo đúng lộ trình đã được phê duyệt”.
Cu thể, thị trường phát điện cạnh tranh đã được chính thức vận hành từ tháng 7.2012 và đang ngày càng hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành điện, giúp hệ thống điện và thị trường điện được vận hành an toàn, ổn định. Nếu như năm 2012 mới chỉ có 32 nhà máy với tổng công suất 9.200 MW tham gia thị trường phát điện cạnh tranh thì đến ngày 31.3.2020 đã có 98 nhà máy điện trực tiếp tham gia cạnh tranh trên thị trường với tổng công suất 26.895 MW.
Tới đầu năm 2019, thị trường bán buôn điện cạnh tranh chính thức vận hành. Từ đây, Tập đoàn Điện lực VN (EVN) không còn là đơn vị mua buôn điện duy nhất như trước đây mà đã có thêm 5 tổng công ty điện lực trực tiếp tham gia mua điện trên thị trường giao ngay cũng như ký hợp đồng song phương với các nhà máy điện.
Đây cũng là một trong các giải pháp để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ độc quyền như phát điện, kinh doanh bán lẻ điện… Cùng với đó, giá khâu phát điện, mua buôn điện được xác định theo cơ chế thị trường, phản ánh cân bằng cung cầu điện tại các thời điểm, phản ánh biến động của các chi phí nhiên liệu đầu vào.
Đáng chú ý, về thị trường bán lẻ điện cạnh tranh, báo cáo cho biết, ngày 9.6.2020, Thủ tướng đã phê duyệt chủ trương xây dựng thị trường bán lẻ điện cạnh tranh. Đến ngày 7.8, Bộ Công thương đã ban hành quyết định phê duyệt đề án thiết kế mô hình thị trường bán lẻ điện cạnh tranh. Đề án đề xuất mô hình thị trường bán lẻ điện cạnh tranh với 3 giai đoạn, gồm: giai đoạn 1 (đến hết năm 2021) là giai đoạn chuẩn bị; giai đoạn 2 (từ 2022 đến 2024) cho phép khách hàng sử dụng điện được mua điện trên thị trường điện giao ngay. Giai đoạn 3 (từ sau năm 2024) cho phép các khách hàng được lựa chọn đơn vị bán lẻ điện.
Bộ Công thương đang xây dựng đề án tái cơ cấu ngành điện phục vụ thị trường bán lẻ điện cạnh tranh và sẽ trình Thủ tướng trong năm 2020.
Tốc động tăng trưởng nguồn điện đang chậm lại đáng kể
Trong khi đó, báo cáo về cân đối cung cầu điện, Bộ Công thương cho biết tốc độ tăng trưởng bình quân của nguồn điện 4 năm lại đây đã sụt giảm còn 8%/năm, thua xa con số 13%/năm của giai đoạn 2011 – 2015. Trong đó giảm nhiều nhất là thủy điện (còn bình quân 5%/năm so với 15% của giai đoạn trước) và nhiệt điện than (còn bình quân 10%/ năm so với mức 27% trước đó).
Nguyên do là thủy điện đã khai thác hầu hết tiềm năng; nhiệt điện than gặp nhiều khó khăn trong công tác xây dựng. Nhiệt điện khí và dầu hầu như không phát triển mới trong suốt giai đoạn 2011 – 2019.
Trong giai đoạn 2011 – 2015, tỷ lệ hoàn thành đầu tư nguồn điện theo công suất trên toàn quốc chỉ đạt 81,4%; trong đó cao nhất là miền Trung đạt 95,9%, còn miền Nam đạt thấp nhất với 62,7%.
Giai đoạn 2016 – 2020 tỷ lệ hoàn thành được nâng lên, đạt 93,7%. Thế nhưng, cơ cấu tỷ lệ công suất đưa vào vận hành lại rất khác biệt. Theo đó, các nguồn điện truyền thống là nhiệt điện (chủ yếu là nhiệt điện than) thực hiện được khá thấp, chỉ đạt khoảng 60% so với quy hoạch. Có 10 dự án nguồn điện lớn dự kiến đưa vào vận hành giai đoạn 2016 – 2020 theo Quy hoạch điện 7 điều chỉnh nhưng bị chậm tiến độ sau năm 2020 với tổng công suất khoảng 7.000MW, như Sông Hậu 1 (1.200MW), Thái Bình 2 (1.200MW), Long Phú 1 (1.200MW), Na Dương 2 (110MW), Cẩm Phả 3 (440MW)…
Dẫn tính toán cập nhật của EVN, Bộ Công thương cho hay nhu cầu phụ tải điện của hệ thống điện quốc gia trong năm 2020 dự kiến đạt 255,6 tỉ kWh, tăng 6,5% so với năm 2019, thấp hơn khoảng 4 tỉ kWh (do ảnh hưởng của dịch Covid-19) so với mức dự báo của Bộ Công thương hồi cuối năm 2019 về kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện năm 2020. Vì vậy, việc cung ứng điện năm 2020 của toàn hệ thống điện quốc gia về cơ bản được đảm bảo và không phải thực hiện tiết giảm điện nếu không có các diễn biến quá bất thường xảy ra.
Tuy nhiên, theo dự báo mới nhất do Viện Năng lượng tính toán, ở kịch bản cơ sở, nhu cầu điện thương phẩm sẽ duy trì mức tăng khoảng 8% trong giai đoạn 2021 – 2030 và dự kiến đạt khoảng 337,5 tỉ kWh vào năm 2025, năm 2030 khoảng 478,1 tỉ kWh. Với việc nhiều nguồn điện lớn bị chậm tiến độ nên tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với công tác cung ứng điện trong giai đoạn 2021 – 2025.
Theo Quy hoạch điện 7 điều chỉnh, tổng công suất các nguồn điện cần đưa vào vận hành trong 15 năm 2016 – 2030 là 96.500 MW (bình quân 6.430MW/năm). Trong đó có tổng cộng 116 dự án nguồn điện cần được đầu tư và đưa vào vận hành (chưa bao gồm các dự án năng lượng tái tạo). Sau 4 năm thực hiện, nhiều dự án đã không được thực hiện như: Điện hạt nhân tại Ninh Thuận (4.600MW); các dự án điện than ở Bạc Liêu, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Long An, Tiền Giang. Nhiều dự án điện BOT bị chậm tiến độ do thời gian chuẩn bị đầu tư, đàm phán bộ hợp đồng BOT kéo dài (Vân Phong I, Vĩnh Tân III, Nghi Sơn II, Vũng Áng II, Nam Định I…).
“Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia là quy hoạch được Thủ tướng phê duyệt. Việc các địa phương không tuân thủ nghiêm túc quy hoạch phát triển điện lực quốc gia sẽ làm cho hệ thống điện phát triển mất cân đối, ảnh hưởng tới độ tin cậy, ổn định và hiệu quả của ngành điện”, Bộ Công thương lo ngại.
Kiến nghị chính sách thí điểm cho các dự án lớn
Trước tình hình đó, Bộ Công thương kiến nghị Quốc hội xem xét ban hành một nghị quyết cho phép ngành điện thực hiện thí điểm một số chính sách chưa có luật điều chỉnh hoặc khác với quy định của luật hiện hành để hỗ trợ các chủ đầu tư dự án điện đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư xây dựng, hạn chế nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn từ nay đến 2030. Cụ thể: bổ sung thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án nhóm A có tổng mức đầu tư từ 2.300 tỉ đồng đến dưới 5.000 tỉ đồng sử dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách do các doanh nghiệp nhà nước làm chủ đầu tư. Kiến nghị thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư các dự án này thuộc về Thủ tướng.
Đối với dự án đầu tư xây dựng công trình điện nhóm A đã nằm trong quy hoạch phát triển điện lực được Thủ tướng phê duyệt, kiến nghị cho phép chủ đầu tư không phải lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi mà được lập ngay báo cáo nghiên cứu khả thi để quyết định đầu tư dự án. Cho phép áp dụng cơ chế Nhà nước cho vay với lãi suất vay tín dụng đầu tư ưu đãi từ nguồn tín dụng đầu tư của Nhà nước hoặc được cấp bảo lãnh Chính phủ về vốn vay theo quy định của pháp luật về quản lý nợ công đối với đầu tư phát triển dự án công nghiệp điện.
Đối với các dự án công nghiệp điện, kỹ thuật điện cho phép việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường sẽ được thực hiện lùi sang giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Các dự án được xây dựng theo lệnh khẩn cấp hoặc các công trình điện xây dựng nhằm đảm bảo an ninh cung cấp điện thì chỉ phải xin chủ trương điều chỉnh quy hoạch của Thủ tướng mà không phải thực hiện các thủ tục điều chỉnh quy hoạch.
CHÍ HIẾU
TNO