25/12/2024

Điện khí hoá nông thôn: Những con số biết nói

Điện khí hoá nông thôn: Những con số biết nói

Dù nhiều sức ép và đòi hỏi nhưng cần nhìn một cách công bằng, ngành điện đã tạo ra kỳ tích: Việt Nam từ “nhóm cuối vươn lên nhóm đầu toàn cầu” tạo nên hình mẫu thành công về phát triển năng lượng vài thập niên qua.

 

Điện khí hóa nông thôn: Những con số biết nói - Ảnh 1.

Điện đã mang lại cho những người nông dân trồng thanh long cuộc sống khấm khá hơn – Ảnh: ĐỖ HỮU TUẤN

 

Cụ thể, Việt Nam hiện là quốc gia có quy mô nguồn điện đứng thứ 2 Đông Nam Á, quy mô lưới điện 500kV dài gần gấp 5 lần chiều dài đất nước.

Không chỉ đáp ứng điện cho khu vực sản xuất, đô thị tập trung, chương trình điện khí hóa nông thôn là một mục tiêu hàng đầu của Chính phủ và các địa phương, được đánh giá là một trong những quốc gia thành công trên thế giới. Kết quả được ghi nhận bằng “những con số biết nói”.

Tỉ lệ hộ gia đình được kết nối với lưới điện tăng từ 2,5% năm 1975 lên 98,6% năm 2016. Tỉ lệ tiếp cận điện của người dân nông thôn tăng từ 14% vào năm 1993 lên trên 99% vào năm 2018. Trong vòng 25 năm, hơn 14 triệu hộ gia đình hay 60 triệu người dân Việt Nam đã được hòa lưới điện quốc gia.

Riêng miền Nam, từ giữa thập niên 1990 ngành điện đã thực hiện chương trình điện khí hóa nông thôn với hàng loạt dự án, công trình đưa điện đến các xã, thôn ở 21 tỉnh, thành. Số hộ dân được sử dụng điện không ngừng tăng, từ 99,12% số xã và 69,64% số hộ dân có điện (năm 2001) lên 100% số xã và 99,69% số hộ dân có điện, trong đó 99,55% số hộ dân nông thôn có điện vào cuối năm 2019, dự kiến cuối năm 2020 sẽ đưa điện đến hầu hết các hộ dân nông thôn trên địa bàn.

Trong vùng sáng của ngành điện, những nỗ lực của Chính phủ, chính quyền các địa phương đã rất nỗ lực cho mục tiêu phủ điện đến toàn bộ người dân trong cả nước, đặc biệt trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp, cũng cần ghi nhận những đóng góp to lớn của khu vực tư nhân hưởng ứng chủ trương đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư phát triển nguồn điện, sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế và người dân.

Mọi người vẫn thường nói một cách văn vẻ rằng điện là ánh sáng văn minh. Mà quả là đúng như vậy. Điện mang đến cho người dân cơ hội thực hiện đa dạng các hoạt động sản xuất. Ở ĐBSCL, chỉ một chuyện nhỏ thôi là thấy được tầm quan trọng của điện về mặt hiệu quả kinh tế cho người con tôm hiệu quả hơn hẳn.

Có điện, cây thanh long đem lại cuộc sống khấm khá cho nhà nông… Điện còn là ánh sáng văn hóa tinh thần, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân vùng nông thôn, từ thắp sáng đến tiếp cận các nguồn thông tin…

Mặc dù chương trình điện khí hóa nông thôn đã lập được kỳ tích nhưng vẫn còn nhiều thách thức ở phía trước. Ví dụ việc triển khai các dự án cấp điện cho cộng đồng chưa nối lưới ở vùng sâu vùng xa còn gặp nhiều khó khăn; nhiều dự án quốc tế phải trì hoãn do một số rào cản về các vấn đề chính sách, cơ chế hỗ trợ, tài chính.

Một nửa thị trường chưa phải là thị trường và Việt Nam vẫn chưa có một thị trường điện cạnh tranh đầy đủ khi mà Nhà nước vẫn phải gồng mình bù lỗ giá điện cho các đơn vị sản xuất để lấp khoảng trống giữa giá mua cộng chi phí, hao hụt với giá bán của ngành điện.

Đầu tư nguồn phát điện nào, từ năng lượng hóa thạch, điện sạch, tập trung hay phân tán luôn là bài toán khó, không chỉ liên quan chi phí – lợi ích thông thường dưới góc độ kinh tế, tài chính mà còn mang nhiều yếu tố chính trị, xã hội và môi trường. Tương tự, quản lý, điều hành ngành điện, trong đó có giá điện, luôn là một thách thức.

TRẦN HỮU HIỆP
TTO