Không chống mặn mà xem đó là cơ hội; không ‘bám’ vào an ninh lương thực để trồng lúa bằng mọi giá rồi xuất khẩu với giá rẻ; giảm lúa để nông dân bớt nghèo…
Đồng bằng sông Cửu Long: Giảm lúa, xem mặn là cơ hội
Không chống mặn mà xem đó là cơ hội; không ‘bám’ vào an ninh lương thực để trồng lúa bằng mọi giá rồi xuất khẩu với giá rẻ; giảm lúa để nông dân bớt nghèo…
Đây là những quan điểm mới, mạnh mẽ đã được lãnh đạo Chính phủ, các chuyên gia đưa ra trong phiên khai mạc hội nghị Chuyển đổi mô hình phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu với tầm nhìn tới năm 2100 tổ chức hôm qua tại Cần Thơ.
Cần tạm dừng thời kỳ trồng nhiều lúa
“Không nhất thiết cứ phải chạy theo sản xuất lúa như từ trước đến nay. Chúng ta phải coi nước lợ, nước mặn cũng là nguồn tài nguyên. Không thể phát triển bền vững ĐBSCL mà cứ quay lưng lại với biển, kể cả Biển đông và biển Tây. Chúng ta quản lý xâm nhập mặn chứ không chống lại xâm nhập mặn. Không cần thiết và cũng không có khả năng chống lại mà cần phải thích ứng và chung sống với nó”, Phó thủ tướng Vương Đình Huệ đã nói như vậy trong buổi chiều tổng hợp ý kiến từ các phiên thảo luận.
Con số đó tương đương hơn một nửa chiều dài bờ sông, biển ĐBSCL hiện tại. Nó khiến nơi được coi là ‘nồi cơm của thế giới’ đối mặt với rất nhiều thách thức.
Trước đó, trong phần thảo luận GS-TS Võ Tòng Xuân, nhà khoa học gắn bó lâu năm với ĐBSCL đề nghị, bắt buộc phải tiết kiệm nước ngọt tối đa, phải tạm dừng thời kỳ trồng nhiều lúa, chuyển sang thời kỳ làm tăng GDP, tăng thu nhập của nông dân.
Phải giải quyết các vấn đề của đồng bằng theo tâm thế là những người giải quyết khó khăn chứ không phải gây nên khó khăn. Ta phải là những người hành động để giải quyết khó khăn cho hậu thế chứ không phải mang lại khó khăn cho hậu thế
Ông Vương Đình Huệ, Phó thủ tướng
Còn thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện thì cho rằng bao lâu nay, ở ĐBSCL, từ đê bao, hệ thống cống, đập ngàn tỉ, máy móc, công nghệ, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc tăng trưởng… mọi thứ đều tập trung cho tăng sản lượng lúa. Nhờ đó, chúng ta trở thành cường quốc về lúa gạo với sản lượng dư thừa để xuất khẩu từ 7 – 8 triệu tấn/năm. Nhưng điều đáng suy nghĩ là lúa mang lại vị thế cho đất nước còn những nông dân làm ra lúa thì vẫn cứ nghèo. Không nên bám theo danh nghĩa lo an ninh lương thực rồi bằng mọi giá trồng lúa để xuất khẩu giá rẻ.
TS Hoàng Ngọc Phong, Phó giám đốc Trung tâm tư vấn phát triển kinh tế (Hội Khoa học kinh tế VN) nói thẳng, cần thay đổi tư duy về an ninh lương thực. “Tại sao chúng ta phải trồng những giống lúa chất lượng thấp để xuất khẩu với giá rẻ, nông dân không có lãi, mà nhà nước lại phải đầu tư lớn?”, ông Phong đặt câu hỏi. Theo ông Phong, VN nói chung và ĐBSCL nói riêng cần thay đổi tư duy về an ninh lương thực, về nông nghiệp không chỉ cứ tập trung làm lúa gạo, mà phải hướng đến một nền nông nghiệp có năng suất, chất lượng và giá trị cao.
Thực tế đã chứng minh, nhiều địa phương ở các vùng ngập mặn đã thay đổi cơ cấu sản xuất từ hai vụ lúa sang một vụ lúa/một vụ tôm/cá và thích nghi tốt với biến đổi khí hậu (BĐKH), bảo đảm đời sống của người dân mà không tốn quá nhiều chi phí đầu tư ngăn mặn. Như tại tỉnh Kiên Giang, một trong những địa phương sản xuất lúa lớn nhất ĐBSCL, các mô hình chuyển đổi từ trồng lúa sang luân canh nuôi trồng thủy sản đang phát huy hiệu quả. “Hiện nay, Kiên Giang đã chuyển đổi một diện tích lớn trồng lúa sang luân canh tôm, cua, nâng cao thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, hướng tới, chúng ta phải sản xuất lớn không thể nhỏ lẻ nữa, nhưng khi đó, chính sách về đất đai sẽ ra sao. Cần đẩy nhanh triển khai việc tích tụ ruộng đất một cách rõ ràng, cụ thể gắn với đầu tư hạ tầng đồng bộ”, ông Mai Anh Nhịn, Phó chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang nói.
Chủ động sống chung với lũ
Ngoài các vấn đề như sụt lún đất, giảm phù sa, thuỷ điện trên dòng chính Mê Kông thì quản lý tài nguyên nước là vấn đề được quan tâm thảo luận. GS-TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT đề xuất, chuyển đổi chiến lược từ “sống chung với lũ” sang “chủ động sống chung với lũ” để khắc phục tình trạng domino đã và đang xảy ra trong quản lý lũ, chống nước biển dâng. Cụ thể, chủ động đưa lũ vào đồng để vệ sinh đồng ruộng, cải tạo đất, lấy phù sa… Để kiểm soát đỉnh lũ lớn chúng ta cần sử dụng hệ thống đê (dùng hệ thống giao thông hiện có), dọc hai bên sông lớn và hệ thống cống, âu thuyền. Cống làm nhiệm vụ kiểm soát đỉnh lũ lớn, cực lớn, âu thuyền phục vụ giao thông thủy khi cống đang kiểm soát lũ.
Chia sẻ kinh nghiệm của Hà Lan trong quản trị nguồn nước, ứng phó với BĐKH cũng như phát triển kinh tế, ông Hermen Borst, Phó cao ủy chương trình đồng bằng Hà Lan cho biết, Hà Lan nhận diện có 3 yếu tố quan trọng nhất là tính thống nhất, tính linh hoạt và bền vững. Ưu tiên chọn giải pháp có tính linh hoạt thích ứng là vô cùng cần thiết, nó rất quan trọng trong bối cảnh môi trường đang thay đổi nhanh. “Những thách thức của Hà Lan và ở khu vực ĐBSCL trong quản lý nước là khá giống nhau. Tuy nhiên, ĐBSCL phải có những quyết định quan trọng đưa ra trước, sau đó có các quyết định tiếp theo. Thay vì chống nhiễm mặn hãy làm quen với nó, khôi phục vùng lũ, ngừng khai thác nước ngầm… Điều quan trọng nữa là phải có một cơ quan có đủ quyền lực ở khu vực này để đôn đốc, thực hiện các quy hoạch và triển khai đúng tiến độ chương trình, cũng như báo cáo lên cấp cao. Nếu không có một cơ quan như vậy thì không thể thành công”.
Phó thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng, bài học thực tiễn của Hà Lan để VN hoàn toàn có thể áp dụng cho ĐBSCL. Để giải quyết các vấn đề bền vững và thịnh vượng cho ĐBSCL thì bài toán liên ngành, liên vùng trên cơ sở quy hoạch có đầy đủ các yếu tố, lĩnh vực trong đó. Phó thủ tướng cũng chia sẻ một số điểm cần lưu ý trong quá trình quy hoạch. Quy hoạch ngành, địa phương cho vùng ĐBSCL thì phải đạt được mục tiêu tiết kiệm và sử dụng đạt hiệu quả cao. Chung sống với mặn, khai thác nước lợ và nước mặn đồng thời phải đảm bảo được nước ngọt cho sinh hoạt.
Thu hoạch cá tra ở ĐBSCLẢNH: CÔNG HÂN
“Trong quá trình rà soát quy hoạch trước khi có một giải pháp công trình nào đó thì phải tính toán kỹ, cân nhắc 3 mặt lợi ích, chi phí kinh tế, xã hội và môi trường. Làm sao khi đầu tư các công trình cho thích ứng với BĐKH chúng ta không phải hối tiếc. Không để ngân sách nhà nước vào cái thế đâm lao phải theo lao”, Phó thủ tướng nhấn mạnh.
Tiếp theo là cần rà soát lại quy hoạch thủy lợi đến năm 2020 tầm nhìn 2050 đã được phê chuẩn, để phù hợp với bối cảnh mới mà ĐBSCL phải đối diện. Vấn đề lớn nhất của đồng bằng là quản lý tài nguyên nước. Nó sẽ tác động đến quy hoạch sử dụng đất. Từ nước và đất sẽ tác động đến tài nguyên đa dạng sinh học. Một vấn đề nữa là phải quy hoạch nông nghiệp đảm bảo sản xuất lúa ăn chắc, chất lượng cao sử dụng ít nước và ít phát thải nhà kính; nuôi trồng thủy sản thì phải được quy hoạch thủy lợi.
Sáng 26.9, tại Cần Thơ đã diễn ra Hội nghị Chuyển đổi mô hình phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu với tầm nhìn tới năm 2100.
“Phải giải quyết các vấn đề của đồng bằng theo tâm thế là những người giải quyết khó khăn chứ không phải gây nên khó khăn. Ta phải là những người hành động để giải quyết khó khăn cho hậu thế chứ không phải mang lại khó khăn cho hậu thế”, Phó thủ tướng nói.
Thủ tướng thị sát các khu vực bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu
Chiều 26.9, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã trực tiếp đi thị sát bằng trực thăng (ảnh) các khu vực bị ảnh hưởng và tác động bởi biến đổi khí hậu thuộc vùng ĐBSCL. Hoạt động này của Thủ tướng để chuẩn bị cho buổi chủ trì phiên thảo luận toàn thể tại hội nghị Chuyển đổi mô hình phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu với tầm nhìn tới năm 2100 diễn ra ngày 27.9 tại Cần Thơ.
Ảnh: TTXVN
Được coi là “Hội nghị Diên Hồng” đối với tương lai của khu vực ĐBSCL, hàng loạt những mục tiêu được đặt ra tại hội nghị quy mô lớn này là phải đưa ra được quyết sách mới, có tính hệ thống, chiến lược, đột phá về quan điểm phát triển, định hướng ưu tiên, quy hoạch phân vùng lãnh thổ, đề xuất được các cơ chế chính sách phù hợp để huy động sự tham gia của các bên. Đặc biệt, những phương án, giải pháp phải khả thi, dễ vận dụng, có tính chất kết nối toàn vùng và liên vùng.
Chiều cùng ngày, tại TP.Cần Thơ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tiếp Phó cao ủy chương trình đồng bằng Hà Lan Hermen Borst, nhân dịp ông sang VN dự hội nghị nói trên. Thủ tướng cho biết trong chuyến thăm Hà Lan vừa rồi, Thủ tướng đã trực tiếp khảo sát quy hoạch vùng đồng bằng và quan sát các công trình trị thuỷ, đê biển ở một số vùng lưu vực, duyên hải trọng yếu của Hà Lan và nhận thấy có những điểm tương đồng với vùng ĐBSCL. Do đó, Thủ tướng mong muốn Hà Lan chia sẻ kinh nghiệm với VN trong việc phát triển bền vững vùng ĐBSCL.
Đình Tuyển – TTXVN
Ý kiến
Sau quy hoạch tích hợp là dồn điền đổi thửa
Chúng ta phải cho quốc tế thấy rằng mũi nhọn của ĐBSCL không chỉ gạo ngon mà còn có trái cây ngon, tôm cá ngon. Phải có một quy hoạch tích hợp với tư duy mới, lợi dụng BĐKH mà phát triển.
Chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp từ đây và xây dựng nông thôn mới cũng từ đây. Từ đó sẽ có những cánh đồng lúa, mía, những trang trại, những trại cá – tôm 1.000 ha. Tùy từng thị trường đòi hỏi, tùy vùng sinh thái thích nghi (không gian), tùy từng thời điểm kinh tế xã hội (thời gian) mà quyết định chọn cây, con trong sản xuất. Bước nữa là cần phải khuyến khích nông dân vào hợp tác xã kiểu mới, liên kết doanh nghiệp hình thành chuỗi giá trị. Khuyến khích và có khi phải bắt buộc dồn điền đổi thửa, vì không dồn điền đổi thửa nông dân không thể giàu được.
GS-TS Võ Tòng Xuân
Quan trọng nhất vẫn là hành động cụ thể
Việc thích ứng với BĐKH thực sự là thách thức rất lớn với VN nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng.
Không thể khai thác cát nơi này, mang lại lợi ích cho một số người nhưng lại làm hại cho những vùng khác khi gây ra sạt lở. Phát triển nuôi thủy sản vùng ven biển để khai thác nước mặn nhưng cần xem xét có ô nhiễm môi trường… Tất cả phải được xem xét trong một hệ thống. Ở hội nghị này chia sẻ, đưa ra ý kiến rất nhiều. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là sau sự kiện này, mọi người sẽ có những hành động cụ thể như thế nào và kết quả ra sao.
Jacob Weger, Nghiên cứu sinh người Mỹ, nghiên cứu về thích ứng BĐKH tại ĐBSCL