Mưu sinh mùa lũ: Làng nghề chộn rộn
Đã lâu lắm mới có đợt lũ lớn về ĐBSCL, mang theo phù sa, tôm cá… và làm “sống lại” những cách mưu sinh tưởng chừng dần đi vào quên lãng do lũ không về…
Mưu sinh mùa lũ: Làng nghề chộn rộn
Đã lâu lắm mới có đợt lũ lớn về ĐBSCL, mang theo phù sa, tôm cá… và làm “sống lại” những cách mưu sinh tưởng chừng dần đi vào quên lãng do lũ không về…
TIN LIÊN QUAN
Sôi động chợ cá linh nung núc mùa nước nổi ở miền Tây
Ông Nguyễn Trung Tiến, người có gần 30 năm trong nghề sản xuất lưới ở Thơm Rơm, cho biết lưới Thơm Rơm nổi tiếng khắp vùng ĐBSCL, được nhiều người tìm mua vì lưới dễ dính cá, thích hợp với địa hình kênh, mương, sông, lạch và giá bán hợp lý. Lưới Thơm Rơm có nhiều loại, từ loại lưới mắt nhỏ dùng bắt cá linh, cá rô… đến lưới mắt lớn hoặc lưới ba màn bắt các loại cá lớn. Năm nay, do chi phí nguyên vật liệu, nhân công, điện… đều tăng nên giá lưới cũng nhích nhẹ từ 10 – 15%. Tuy vậy, tới thời điểm này, nhiều cơ sở sản xuất lưới ở Thơm Rơm rơi vào cảnh cháy hàng do lũ lớn về sớm.
Nhớ mùa cá đồng
Dù lũ về sớm và được đánh giá lớn “bất thường” so với nhiều năm qua, nhưng với nhiều lão ngư, tôm cá theo con nước về đã vơi hẳn…
Nhìn cánh đồng đục màu nước lũ, lão ngư Nguyễn Văn Ngáo (60 tuổi, ngụ xã Bình Thạnh Đông, H.Phú Tân, An Giang), chặc lưỡi thở ra: “Cá vẫn vào đồng nhưng những mùa cá đồng giờ gần như không còn nữa”. Ông Ngáo sống với nghề cá hơn 45 năm. Ở miệt này, ông được ví như “từ điển sống” về cá tôm vì biết tường tận các loài cá nước ngọt. Bạn cùng thời với ông nhiều người đã bỏ nghề, còn ông vẫn gắn bó với nghề hạ bạc.
Cánh đồng ở cù lao Phú Tân được bao bọc bởi 3 con sông lớn là sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao và vàm Cái Đầm nên ngày xưa cá vào đồng nhiều vô số. Ông Ngáo nhớ, loài cá mở đầu cho mùa cá đồng là cá leo. “Cá leo là cá da trơn, thích đi con nước đêm, lên đồng đẻ trứng. Từ sông rạch, chúng bắt cặp từng đôi “leo” qua bờ đất vào ruộng rồi quấn nhau giao tình quậy nước tung toé. Tụi tôi ngồi rình, thấy cá vào sâu trong đồng trở ra sông không kịp liền cầm nơm rượt chụp. Ai cũng nói, cá gì dại thiệt, đi có cặp, chạy chết cũng có đôi nên bắt thường dính 2 con, mỗi con nặng từ 1,5 – 3 kg”, lão ngư hồi tưởng.
Sự rành mạch về cá đồng của ông Ngáo làm cánh ngư dân trẻ kính nể. Ông Ngáo cho biết loài cá cũng phân định rạch ròi “đẳng cấp”. Nếu cá leo, cá ngựa “tiên phong” mở đường cho các loài cá linh, lóc, rô, trê, chạch, sặc, lòng tong, chốt, mè vinh… tràn vào đồng thì cá hô đất là con cá đánh dấu kết thúc mùa hội cá. Ngư dân thả lưới trên đồng, bắt được cá hô đất thì biết rằng các loài cá vào đồng đã hết. “Cá hô đất lạ lắm, vào đồng trễ nhưng ra sông đầu tiên. Tháng 10 (âm lịch) bắt được nó trên sông rạch, ngư dân liền chuẩn bị ngư cụ vì biết đó là dấu hiệu cá sắp từ đồng trở ra sông. Cá hô bắt được, con to lắm khoảng 4 kg nhưng đem thả nuôi trong ao, đìa vài mùa sau nặng mấy chục ki lô gam”, ông Ngáo nói.
Theo ông Ngáo, từ lúc làm đê bao, cá leo, cá ngựa và các loài cá khác kéo đi mất biệt. Ngày xưa, người dân làm lúa mùa nổi nên đúng ngày 10.10 (âm lịch) là cá linh ra sông. Lúc này, nước trong đồng chuyển sang màu vàng au như nước trà quạu nhưng có mùi thúi hăng hắc khó chịu, cá tôm bị trúng nước thúi nổi chết lềnh bềnh; trong đó tôm là con chết đầu tiên vì chúng là loài ăn dơ nhưng ở phải sạch. Nước thúi đuổi tháo cá linh và các loài cá khác cuống cuồng ra sông, người dân gọi con nước đó là “mùa cá dại”. Giờ thì mùa cá dại không còn, cá linh tuy còn nhưng không tìm thấy được luồng cá ồ ạt như xưa.
Chỉ tay về những ngư dân đang thả lưới trên vàm Cái Đầm, ông Ngáo chậm rãi nói: “Ngày xưa sống bằng nghề cá không sợ đói, cá có mãn năm, hết mùa cá đồng lại đến cá sông. Cá sông có cá sửu, cá hú, cá tra, cá lăn, cá sát… bắt không ngớt tay. Tôi và bao ngư dân khác xây được nhà, mua được đất ruộng cũng nhờ tôm cá tự nhiên. Còn ngày nay, đi bắt cá có khi về tay không”. Chìa cho chúng tôi xem mớ cá rô, cá sặc nong vừa bắt được, ông Ngáo lắc đầu: “Hồi đó, vào mùa lũ, dù có túng bấn mấy cũng không ai bắt cua đồng ăn. Còn bây giờ ăn cua, ốc đã thành đặc sản”.
Thanh Dũng
|
Đặng Ngọc