Việc gỡ bỏ trần giá sữa, như dự thảo Thông tư về quản lý giá mặt hàng sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được Bộ Công thương soạn thảo, được đánh giá sẽ ‘rộng cửa’ để các doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh, giúp thị trường tự điều tiết theo quy luật.
Bỏ trần giá sữa, người tiêu dùng được lợi
Việc gỡ bỏ trần giá sữa, như dự thảo Thông tư về quản lý giá mặt hàng sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được Bộ Công thương soạn thảo, được đánh giá sẽ ‘rộng cửa’ để các doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh, giúp thị trường tự điều tiết theo quy luật.
Theo dự thảo, các doanh nghiệp (DN) kinh doanh sữa dành cho trẻ em dưới 6 tuổi sẽ tự xác định mức giá bán lẻ sữa đến người mua cuối cùng; đồng thời đăng ký hoặc kê khai giá với cơ quan nhà nước; triển khai giá bán này cũng như chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm trong toàn chuỗi phân phối trên cả nước.
Áp trần vẫn không quản được giá
Trước đây, giá sữa như “con ngựa bất kham”, lên xuống thất thường, không ổn định, và cao hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới. Tính bình quân giá 1 kg sản phẩm, sữa của tất cả nhãn hàng tại VN cao hơn khoảng 14% so với Thái Lan, 24% so với Philippines, 46% so với Malaysia và 60% so với Indonesia. Vì vậy, nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cơ quan chức năng đã tham gia quản lý bằng cách áp giá trần đối với mặt hàng sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, trong thời gian qua, dù đã dùng đến biện pháp cuối cùng là công cụ giá trần, cơ quan quản lý vẫn không thật sự “quản” được giá mặt hàng này. “Việc áp trần giá sữa thực chất là cơ quan nhà nước tự định giá. Việc này đặt ra câu hỏi là liệu giá nhà nước đưa ra có chính xác? Hơn nữa, do không xác định được thị trường sữa có hay không việc DN có thị phần thống lĩnh, tác động lớn đến mặt bằng giá sản phẩm nên việc áp trần giá sữa thời gian qua, dù thông điệp là bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì cũng là biện pháp khiên cưỡng. Đến nay, sản phẩm sữa đã có sự cạnh tranh, cần gỡ bỏ giá trần để thị trường tự điều tiết theo quy luật, tránh những hệ luỵ không tốt đối với đầu tư, sản xuất, kinh doanh ngành sữa”, ông Long phân tích.
Mới đây, các thành viên của Tiểu ban Thực phẩm dinh dưỡng thuộc EuroCham (NFG), đại diện cho 5 công ty sữa đa quốc gia có mặt tại VN, một lần nữa vừa kiến nghị gỡ bỏ chính sách áp trần giá sữa. Theo NFG, từ khi biện pháp này được áp dụng từ tháng 6.2014, nhiều khoản chi phí của DN sữa đã tăng như tỷ giá, chi phí điện, chi phí nhân công… tác động đến hoạt động của các nhà sản xuất và phân phối sữa.
Trong bối cảnh đó, Công ty Danone, nhà sản xuất sữa Dumex, đã rời khỏi thị trường VN vào năm ngoái. Theo Sách Trắng 2017 của EuroCham, việc áp giá trần là đi ngược với chủ trương hoàn thiện nền kinh tế thị trường, không những tác động đến kết quả hoạt động ngắn và trung hạn của DN, mà còn ảnh hưởng đến thương mại và triển vọng đầu tư trong dài hạn nói chung. “Việc Chính phủ đưa ra các quy định can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của DN là một lời cảnh báo đáng lo ngại về môi trường đầu tư chưa thực sự ổn định, thân thiện và hội nhập của VN”, báo cáo viết.
Người tiêu dùng được lợi
Việc áp trần giá sữa thời gian qua, dù thông điệp là bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì cũng là biện pháp khiên cưỡng. Đến nay, sản phẩm sữa đã có sự cạnh tranh, cần gỡ bỏ giá trần để thị trường tự điều tiết theo quy luật, tránh những hệ luỵ không tốt đối với đầu tư, sản xuất, kinh doanh ngành sữa
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long
Theo Hiệp hội Sữa VN (VDA), thị trường sữa Việt đã tăng trưởng bình quân khoảng 17%/năm trong giai đoạn 2011 – 2015. Năm 2016, tổng doanh thu toàn ngành ước đạt hơn 95.000 tỉ đồng, trong đó riêng Vinamilk thu về 42.600 tỉ đồng. Xét về loại sản phẩm, giá trị của hai mặt hàng sữa bột và sữa tươi chiếm tới 3/4 tổng giá trị toàn ngành. Ngoài ra, sản lượng sữa tươi năm 2016 ước đạt trên 1 tỉ lít và sữa bột là 97.300 tấn. VDA dự báo những năm tới, ngành sữa sẽ tiếp tục tăng trưởng khoảng 9%, với nhu cầu tiêu thụ đạt 27 – 28 lít sữa/người/năm tính đến năm 2020, tăng gần gấp rưỡi so với hiện tại. Hiện cả nước có khoảng 60 DN sản xuất và kinh doanh sữa với hơn 300 nhãn hàng. Tuy nhiên, tổng lượng sữa tươi mới chỉ đáp ứng khoảng 20 – 25% nhu cầu nội địa, còn lại phải phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, trong đó chủ yếu từ New Zealand.
Theo dự thảo của Bộ Công thương, sau khi xem xét tính phù hợp của mức giá đăng ký hoặc kê khai, cơ quan quản lý sẽ thông báo mức giá nêu trên và thông tin về hệ thống phân phối của từng DN, hợp tác xã đầu mối đến cơ quan quản lý tại các địa phương, để phối hợp giám sát giá ở khâu bán lẻ cuối cùng. “Mức giá này sẽ là mức giá trần của sản phẩm sữa bán trong toàn hệ thống của DN”, Bộ Công thương cho biết. Theo đánh giá của Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công thương, phương thức quản lý này sẽ giúp truy xuất được nguồn gốc hàng hóa, kiểm soát được chất lượng, giá cả… xác định được trách nhiệm của các DN, hợp tác xã khi có vi phạm hoặc có thể thu hồi được sản phẩm trong trường hợp sản phẩm có vấn đề về chất lượng.
NFG kiến nghị, đối với thị trường sữa công thức, Chính phủ không nên kiểm soát giá bán của các sản phẩm ở phân khúc cao cấp và trung bình, mà nên áp dụng bình ổn giá lên phân khúc bình dân để đảm bảo người tiêu dùng có thu nhập thấp có thể tiếp cận sản phẩm. Đồng thời, để kéo giảm giá sữa, cơ quan quản lý cân nhắc giảm thuế nhập khẩu sữa, thuế giá trị gia tăng. Hiện thuế nhập khẩu của hàng hóa từ các nước Đông Nam Á ở mức 0% và 10% áp dụng cho các quốc gia khác. Mức thuế này cao hơn mức thuế ở các nước khác trong khu vực.
Theo chuyên gia Ngô Trí Long, việc gỡ bỏ giá trần, người tiêu dùng sẽ được lợi. Bởi thị trường sữa sẽ phát triển lành mạnh hơn, sòng phẳng hơn, do DN được quyền tự quyết giá bán và không cần phải tìm cách “lách” cơ quan quản lý như khi bị áp giá trần. Thị trường sữa cũng sẽ bước vào cuộc đua giá để giành thị phần, giành sự tin yêu của người tiêu dùng, buộc DN cạnh tranh lành mạnh, phấn đấu tăng năng lực, hạ giá thành. “Đây là cuộc chiến mà người tiêu dùng có lợi”, ông Long nói. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý, trên thực tế, việc để DN tự kê khai là tiến bộ, nhưng cũng đòi hỏi cơ quan quản lý đủ năng lực để kiểm soát. Một trong những biện pháp là nắm được và so sánh giá sản phẩm với các nước trong khu vực, để khi DN giải trình chi phí, cơ quan quản lý biết được giá cả có thực chất hay không.