29/11/2024

Thập mục ngưu đồ

Các bức tranh chăn trâu được sáng tạo từ thời nhà Tống ở Trung Quốc (960 – 1279). Ngay từ ban đầu nó đã được xem như là những bức họa tiêu biểu, trình bày về tinh hoa Phật giáo Thiền tông – Trung Hoa.Mời các bạn cùng thưởng thức.

 

Lý luận Thiền tông trong Thập mục ngưu đồ

 

 

Các bức tranh chăn trâu được sáng tạo từ thời nhà Tống ở Trung Quốc (960 – 1279). Ngay từ ban đầu nó đã được xem như là những bức họa tiêu biểu, trình bày về tinh hoa Phật giáo Thiền tông – Trung Hoa. Mười bức tranh Thập mục Ngưu đồ của Thiền tông tương ứng với quá trình hành đạo của một người phát nguyên đạt đến sự giác ngộ và bên trong nó ẩn giấu những tinh hoa của Phật giáo Đại thừa.

 

 

Sau khi Phật giáo được truyền nhập vào Việt Nam thì một số hòa thượng với kiến thức Hán học uyên thâm đã chuyển đổi nội dung và cách hành văn phù hợp với sự nhận thức của người Việt đối với Thập Mục Ngưu Đồ.

Các tác giả sáng tạo nên bộ tranh đã mượn hình ảnh chăn trâu để diễn tả về quá trình “minh tâm thấu tính” tức “con trâu” là cái bản ngã của ta được ví như một con vật. Nguồn gốc của môn phái Thiền tông lại chính là nằm ở khái niệm “tri hữu” tức nhận biết về sự tồn tại của vật đó. Một khi ta đã minh tâm thấu tính tức là ta đã trở thành Phật là ý niệm nằm sâu trong hình ảnh chăn trâu. Chúng ta cần biết rằng về lý đó là quá trình đốn ngộ và sự đốn ngộ dần dần tan hết, về sự đó là những việc cần loại bỏ từ từ rồi lần lượt ta sẽ đến tận cùng của nó. Gọi là chỉ hiềm mang máng một sự ở quá khứ giống như con người ta sinh ra ở trần thế 10 tháng trong bụng mẹ, ba năm tập đi cái công đó của cha mẹ lẽ nào một chốc ta lại thoáng quên hay sao. Tuy nhiên với những bậc trí lượng hơn người mới biết đâu là sự việc cần yên định để cho mọi vấn đề không lẫn vào như mới mong gỡ ra được. Dưới đây xin đăng lại mười bài thơ nguyên gốc của các tác giả Trung Quốc và thơ cách điệu về Thập mục ngưu đồ của các vị hòa thượng Việt Nam đời trước để độc giả suy ngẫm.

1. Bức tranh thứ nhất:

Tìm trâu được ví như quá trình ta tham vấn về Thiền đạo giống như khi ta bị lạc vào nơi sơn cùng thủy tận không thể thấy đâu là đường. Lúc này ta đâu thể thoái lui đồng thời các sự việc của phàm trần đến chỗ cùng cực tất biến thông. Ta cần biết rằng tận cùng cái lý “vật cùng tắc biến” được thấu suốt bằng một câu thơ “liễu ám hoa minh riêng một thôn”.

Thơ nguyên gốc: tạm dịch
Hung hăng đầu sừng nộ xung thiên
Băng qua khe lạch khắp sơn điền 
Một mảnh mây đen ngang hang thẳm
Nào biết dò bước cỏ hoa phiền.

Thơ chữ Hán dịch Việt:

1. TẦM NGƯU:
Mang mang bát thảo khứ truy tầm 
Thuỷ khoát sơn dao lộ cánh thâm 
Lực tận thần bì vô xứ mịch 
Đãn văn phong thụ vãn thiền ngâm

Nao nao vạch cỏ kiếm tìm trâu 
Núi thẳm đường xa nước lại sâu 
Kiệt sức mệt nhoài tìm chẳng thấy 
Thoáng nghe trong gió tiếng ve sầu.

2. Bức tranh thứ hai

Thấy dấu vết của con trâu tức hàm ý cái cách chăn trâu cần ràng buộc con trâu theo sự tùy nghi nhưng phải có chủ đích nhất định, không được bất cập hoặc thái quá thì nó mới có sự vận động theo chiều hướng tốt. Vội vàng sẽ hỏng việc bởi vì người vội vàng sẽ trở nên cố chấp. Hay quên cũng không được bởi vì người hay quên sẽ lẫn về đường lối. Tóm lại người học thiền cần phải kiên trì quan sát, suy ngẫm rồi từng bước tiến theo con đường đúng đắn thì con trâu mới dễ dàng sai khiến. Nếu không làm được thì con trâu sẽ đứng ỳ ra rất khó chế phục nó.

Thơ nguyên gốc ( tạm dịch)
Ta mang dây thừng xuyên mũi trâu
Tức giận ra roi hề gì đâu
Từ xưa tính bướng khó điều trị
May nhờ trẻ đồng gắng sức mầu

Thơ chữ Hán dịch Việt:

2. KIẾN TÍCH
Thủy biên lâm hạ tích thiên đa
Phương thảo li phi kiến dã ma 
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ
Liêu thiên tị khổng chẩm tàng tha

Ven rừng bến nước dấu liên hồi
Vạch cỏ giẽ cây thấy được thôi
Ví phải thâm sơn lại cùng cốc
Ngất trời lỗ mũi hiện ra rồi.

Bức tranh thứ ba

Thấy trâu hàm ý sau khi cố gắng điều phục ở bản thân đã khiến con trâu đi vào đúng đường. Trên con đường đó ra cần dần dần cho con trâu thích nghi với một số quy tắc nhất định. Kể từ giai đoạn này cần chớ có thái độ phóng túng mới không bị mắc vào lầm lỗi.

Thơ nguyên gốc (tạm dịch):
Khoan thả chế phục lại canh tân.
Vượt thủy, xuyên mây bước trong trần
Tay cầm thừng kia đầu trì hoãn.
Mục đồng cuối ngày mệt quên dần

Thơ chữ Hán dịch việt

3. KIẾN NGƯU
Hoàng oanh chi thượng nhất thanh thanh 
Nhật noãn phong hoà ngạn liễu thanh 
Chỉ thử cánh vô hồi tị xứ 
Sâm sâm đầu giác hoạch nan thành

Hoàng anh cất tiếng hót trên cành 
Nắng ấm gió hoà bờ liễu xanh 
Chỉ thế không nơi xoay trở lại 
Đầu sừng rành rõ vẽ khôn thành.

Bức tranh thứ tư

Bắt trâu mang ý nghĩa là sự quay đầu chuyển hướng ý nghĩ trở lại bởi vì ý nghĩ mang nội dung khác nhau ở vào các thời điểm khác nhau, do vậy ta luôn có cách nhìn nhận trở lại vấn đề mới không bị lạc hướng. Tuy nhiên sự nhìn nhận lại này không có nghĩa là bê hết toàn bộ nội dung tư tưởng và hành động trong quá khứ tái hiện lại. Nếu ta không biết nhìn nhận lại thì ta không thể xuất thế được đồng thời từ sự giác ngội ban đầu ta lại chấp vào cõi mê vì vướng vào cõi hỗn mang để quên hết bản gốc. Sự chấp mê có lý do của nó nếu không thấu hiểu sẽ thành lỗi.

Thơ nguyên gốc (tạm dịch):
Ngày trước dày công biết quay đầu
Cuồng sức phí lực chẳng về đâu
Mục đồng chưa thả đã ưng thuận.
Lại đem dây thừng buộc vào trâu.

Thơ chữ Hán dịch Việt:

4. ĐẮC NGƯU
Kiệt tận thần thông hoạch đắc cừ 
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ 
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng 
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư

Dùng hết thần công bắt được y 
Tâm hùng sức mạnh khó khăn ghì 
Có khi vừa hướng cao nguyên tiến 
Lại xuống khói mây mãi nằm ì

Bức tranh thứ năm

Chăn trâu mang hàm ý cần phải luôn quan tâm bồi dưỡng công sức tu luyện Thiền học qua năm tháng. Sinh khí dần dần thành thục, sự thành thục lại tạo ra sinh khí dần dần thành thục, sự thành thục lại tạo ra sinh khí tu học mới để loại bỏ hết các thói quen cũ. Chỉ có như vậy công lao gắng rèn về tính mới hiển đạt được. Tự bản thân thấy có sự biến hóa khí chất mới thực chứng được tư duy.

Thơ nguyên gốc ( tạm dịch):
Ngồi bên rặng liễu khe lạch xưa.
Bỏ cũ đón mới mấy cũng vừa
Ngày trước mấy xanh nơi hoa cỏ
Mục đồng quay về chẳng cần đưa.

Thơ chữ Hán dịch Việt:

5. MỤC NGƯU
Tiên sách thời thời bất li thân 
Khủng y túng bộ nhạ ai trần 
Tướng tương mục đắc thuần hoà dã 
Ki toả vô câu tự trục nhân

Nắm chặt dây roi chẳng lìa thân 
Ngại nó chạy rông vào bụi trần 
Chăm chăm chăn dữ thuần hoà dã 
Dây mũi buông rồi vẫn theo gần

Bức tranh thứ sáu

Sau một thời gian thuần hóa, các tập quán cũ đã dần dần loại bỏ hết nên có thể tự do tự tại với tư duy nghĩ sâu về đạo. Kể từ đó nhất cử đều đúng theo nghi thức không hề tổn phí tâm công. Tự nhiên ta hài hòa với đạo lớn tự nhiên không xưa không nay để gặt hái sự hoan hỷ.

Thơ nguyên gốc ( tạm dịch):
An nhàn lạc địa thỏa ý xưa
Há cầu roi da để cho chừa
Mục đồng an tọa dưới tùng bách
Khúc sáo thanh bình vẳng tiếng đưa.

6. KỊ NGƯU QUY GIA
Kị ngưu mạt trấp dục hoàn gia 
Hà địch thanh thanh tống vãn hà 
Nhất phách nhất ca vô hạn ý 
Tri âm hà tất cổ thần nha

Cưỡi trâu thong thả trở về nhà 
Tiếng sáo vi vu tiễn vãn hà 
Một nhịp một ca vô hạn ý 
Tri âm nào phải động môi à

Bức tranh thứ bảy

 

Nay ra như lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh, quá khứ – tương lai không hề vấy đục bản tâm thanh tịnh. Chuyên tâm ta quy về đạo lớn, nhất cử nhất động đâu đâu cũng hợp ý của đạo. Các suy tư về đạo ở lúc ban đầu dần dần tan hết, thành ý không hề tan mất để tạo ra một sự chuyển biến mới về chất trên con đường tu thiền.

Thơ nguyên gốc (tạm dịch):
Gió xuân rặng liễu lúc triều dương.
Hương cỏ nồng khắp chốn thảo đường.
Chạy tịnh qua bữa tùy thời nghỉ.
Mục đồng say giấc chẳng vấn vương

Thơ chữ Hán dịch Việt:

7. VONG NGƯU TỒN NHÂN
Kị ngưu dĩ đắc đáo gia san 
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn 
Hồng nhật tam can do tác mộng 
Tiên thằng không đốn thảo đường gian

Cưỡi trâu về thẳng đến gia san 
Trâu đã không rồi người cũng nhàn 
Mặt nhật ba sào vẫn say mộng 
Dây roi dẹp bỏ bên cạnh sàng

Bức tranh thứ tám

Con trâu là hình ảnh con đường tu Thiền của ta chăng? Ta đi chăn trâu, trâu là ta hay ta là trâu. Tùy vào sự lãng quên để tan dần hình tích giống như mây trên trời xanh hay nước ở trong bình. Nội thiền đã đắc uyên thâm hẳn tâm ta thành Phật ấn rồi tùy vào sự dung hợp đó để ta không phải bận nghĩ về bất cứ vấn đề nào cả.

Thơ nguyên gốc ( tạm dịch):
Trâu trắng đang bay chốn mây xanh
Ta bản vô tâm cùng trâu hành.
Mây trắng cùng trăng biến ảnh.
Trăng ngời mây trắng cảnh sắc thanh.

Thơ chữ Hán dịch Việt.

8. NHÂN NGƯU CÂU VONG
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không 
Bích thiên liêu khoát tín nan thông 
Hồng lô diễm thượng tranh dung tuyết 
Đáo thử phương năng hợp tổ tông

Roi gậy, người trâu thảy đều không 
Trời xanh thăm thẳm tin chẳng thông 
Lò hồng rừng rực nào dung tuyết 
Đến đó mới hay hiệp tổ tông

Bức tranh thứ chín

Khi đạt tới cảnh giới vô nhân, vô ngã thì con trâu chẳng thấy đâu nữa. Khi ta đã vô tâm, vô sự thì hà tất cần phải cầu điều gì nữa. Kể từ đó ta có thể đạt tới tự do tự tại vô biên an lạc mà không hề sầu muộn. Đạt tới được cảnh giới đó hẳn ta sẽ thấy ánh sáng lung linh của đạo lớn, giải thoát mọi xiềng xích của căn trần. Một khi đã hé lộ chân tướng thực của đạo hẳn ta cũng chẳng hề bị ràng buộc vào ngôn ngữ của kinh kệ, tâm tính không hề vấy tạp, tự tại viên thành, tất khó dời bỏ duyên Phật vậy.

Thơ nguyên gốc (tạm dịch)
Một mảnh mây trắng cảnh dần tan
Trâu – người cùng lạc, mục đồng nhàn.
Vỗ tay cao hát dưới trăng sáng.
Quay lại duy nhất một ải quan.

Thơ chữ Hán dịch Việt

9. PHẢN BẢN HOÀN NGUYÊN
Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công 
Tranh như trực hạ nhược manh lung 
Am trung bất kiến am tiền vật 
Thuỷ tự mang mang hoa tự hồng

Phản bản hoàn nguyên đã phí công 
Đâu bằng thẳng đó tợ mù câm 
Trong am chẳng thấy ngoài vật khác 
Nước tự mênh mông hoa tự hồng

Bức tranh thứ mười

Khi cảnh sắc trâu và người đều tan biến hết, việc lý luận biện bác về việc đó cũng vô ích. Duy nhất một pháp giới và pháp giới là một thực thể. Với thành tựu đại viên mãn thì đó chính là trân thường ở cõi Niết Bàn, thực an lạc, thực là ta, thực thanh tĩnh. Kể từ đời nhà Đường trở về trước các Hòa thượng thiền tông đã truyền dạy cho các lớp học trò về nguyên lý “trực chỉ nhân tâm”, “kiến tính thành Phật”. Nhưng đến các đời sau này, pháp cụ truyền dạy về tôn chỉ đó càng ngày càng sa sút, sự tin tưởng vào bản thân ngày càng mờ nhạt nên học phái Thiền tông ở Trung Hoa không có bước phát triển nào mới thêm. Các khái niệm về “viên ngộ” và “đại tuệ” đều do các nhân tài trong giới Phật giáo đời sau khởi xướng nhưng việc thích nghi với các khái niệm đó như thế nào? Chúng ta cần phải có những suy nghĩ thấu đáo về vấn đề đó.

Thơ nguyên gốc (tạm dịch)
Trâu – người không biết đã về đâu
Vạn tưởng tỏa sáng chẳng cần cầu
Ví thử tìm ra đâu là ý 
Cỏ hoa tiên cảnh trắng sắc mầu.

Thơ chữ Hán dịch Việt

10. NHẬP TRIỀN THÙY THỦ
Lộ hung tiển túc nhập triền lai 
Mạt thổ đồ khôi tiếu mãn tai 
Bất dụng thần tiên chân bí quyết 
Trực giáo khô mộc phóng hoa khai

Chân trần bày ngực thẳng vào thành 
Tô đất trét bùn nụ cười thanh 
Bí quyết thần tiên đâu cần đến 
Cây khô cũng khiến nở hoa lành.


Mười bức tranh chăn trâu Đại thừa

Bàn thêm về bộ tranh “ Thập mục ngưu đồ”

Hỏi: Nếu có thể tóm lược tinh thần của “Thập mục ngưu đồ”, thì Tạp chí chỉ cho biết phải nói thế nào? Nghe nói những bức tranh này xuất xứ từ Trung Quốc, vậy thư tịch cổ có nhắc đến không?

Trả lời : Về tinh thần Thập mục ngưu đồ, chúng tôi giới thiệu dưới đây, còn về thư tịch cổ của Việt Nam, xin dẫn đoạn đối thoại sau đây trích trong “Truyền đăng lục”, quyển 9.

Phước Châu Đại An hỏi : “Tôi khao khát hiểu pháp Phật, đó như cái gì?”
Bách Trượng đáp: “Hệt như cưỡi trâu tìm trâu”.
Phước Châu Đại An: “Hiểu rồi thì như thế nào?”.
Bách Trượng: “Như người cưỡi trâu về nhà”.
Phước Châu Đại An: “Rồi làm sao giữ cho trước sau toàn vẹn”.
Bách Trượng: “Như người chăn trâu cầm roi giữ trâu mình đừng phạm đến lúa mạ của người.

Hỏi: Xin tạp chí tra cứu giùm về “Thập mục ngưu đồ” – mười bức tranh trâu? Tôi thấy có nhiều bộ tranh, vậy thì tại sao lại có nhiều bộ tranh khác nhau như vậy?.

Trả lời: Về 10 bức tranh trâu, có nhiều kiến giải, chúng tôi xin trích kiến giải của nhà Thiền học Daisetz, Teitaro Suzuki trong sách “Thiền Luận” do Trúc Thiên dịch,dẫn qua Thư viện Hoa Sen trong trang http://www.thuvienhoasen.org/, như sau:

THẬP MỤC NGƯU ĐỒ là mười bức tranh chăn trâu. Tranh ra đời từ triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau thất lạc luôn. Mãi đến từ đời nhà Tống, thế kỷ XII, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện tự các tòng lâm, thiền viện, phản ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là không phải chỉ có một bộ, mà nhiều bộ “mục ngưu đồ” khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu THANH CƯ và QUÁCH AM.

Tuy có nhiều bộ tranh, nhưng bộ nào cũng như bộ nào, đều có 10 bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về hình thức. Còn về tinh thần thì tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại: loại tranh Đại Thừa và loại tranh theo khuynh hướng Thiền Tông. Trong mỗi loại, tranh vẽ không giống nhau, nhưng bài tụng và bài chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.

Hỏi: Xin cho biết ý nghĩa của các bộ tranh Thập mục ngưu đồ?

Trả lời: Về bộ tranh “Thập mục ngưu đồ” đã có bài ở trên, chúng tôi xin điểm qua bộ tranh “Thập mục ngưu đồ” có khuynh hướng Đại thừa trước.

Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bức họa, trâu đen dần dần biến thành trắng. Trắng từ trên đỉnh đầu, rồi trắng quanh mình, rồi lan ra đến chót đuôi.

Đó là tượng trưng cho phép tu tập. Theo phép tu thì phải rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang ngộ; nhờ công phu, ái tâm vọng lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được dìu dắt mà con trâu hoang qua ngày tháng thuần thục dần, và trắng dần, tthay thế lớp da đen dơ dáy:

Nhựt cửu công thâm thỉ chuyển đầu 
Điên cuồng tâm lực tiệm điều nhu 
(Công phu chầy tháng mới quay đầu 
Tâm loạn lần hồi chịu thuận nhu)

Mười bức tranh có tên là: Vị mục: chưa trăn; Sơ điều: Mới chăn; Thọ chế: chịu phép; Hồi thủ: quay đầu; Tuần phục: vâng chịu; Vô ngại: không ngại; Nhiệm vận: tha hồ; Tương vong: cùng quên; Độc chiếu: Soi riêng; Song dẫn: dứt cả hai ( vẽ vòng tròn).

Bộ tranh Đại Thưa nào cũng mở đầu bằng bức họa vị mục (chưa chăn) vẽ con trâu hoang và khép lại là bức họa song dẫn, vẽ một vòng tròn tượng trưng cho Viên Giác. “Song dẫn” là dứt được hết là cả hai: trâu và mục đồng, tâm và cảnh, dứt được hết là hiển hiện ánh Chân Như lung linh trong màu cỏ nội hoa ngàn:

Nhân ngưu bật kiến yểu vô tung 
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không 
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý 
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng

Nghĩa :

Người trâu chẳng thấy biệt mù tăm 
Trăng sáng soi trùm muôn tượng không 
Ví hỏi vì sao đoan đích ấy 
Um tùm cỏ nội với hoa đồng

Chúng ta có thể thưởng thức vài bộ tranh chăn trâu loại Đại Thừa này trong cuốn Judo lnternational của Liên đoàn Nhu Đạo Pháp quốc, do Jagarin sao lục lại và có dịch luôn cả bài tụng và chú; trong Phật Học Tinh Hoa của giáo sư Nguyên Duy Cẩn (phần phụ lục) trong pho sách cổ “Mục ngưu đồ” bằng chữ Hán tại thư viện chùa Xá Lợi; trong tập “Học làm Phật” của thầy Trương Lạc (chùa Linh Chưởng ấn hành, 1964), trong ấy có đủ mười bài thơ chăn trâu Đại Thừa, vừa nguyên tác vừa bản dịch của Tuệ Nhuận.

Về nội dung: Đề tài chung của các loại tranh chăn trâu là đường lối tu tập. Đường lối tuy nhiều, song không ngoài việc bắt tâm. Nên tập “Mục ngưu đồ” có thể coi như là lời giải đáp cho câu hỏi trong kinh Kim Cương:

“Vân hà hàng phục kỳ tâm?” 
(làm sao làm chủ được cái tâm?)

Tâm ở đây là con trâu. Vì có trâu nên có mục đồng. Vì có tâm nên có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại thừa đều nhằm vào sự “bắt buộc” trâu, tức là “điều tâm” vậy. Tâm là con trâu hoang. Muốn trị nó phải dùng những biện pháp mạnh, như đánh bằng roi, xỏ mũi bằng dây lòi tói v.v… Cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới cấm, phát tâm bồ đề v.v…. Qua ngày tháng, trâu trở nên thuần thục, tâm trở nên điều hòa. Đó là bước đầu, diễn tả bằng năm bức họa đầu: “vị mục, sơ điêu, thọ chế, hồi thủ và tuần phục”. Đó là giai đoạn của GIỚI vậy, mở đường cho ĐỊNH phát sanh trong giai đoạn kế. Trong giai đoạn này, tâm đã tuần phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm đã định, không gặp gì chướng ngại. Tâm định là ngã chấp hết, song vẫn còn pháp chấp.

Đó là bước tu chứng của hàng tiểu Thừa (thanh văn và duyên giác) diễn đạt bằng hai bức họa “vô ngại” và “nhiệm vận”.

Cần đi thêm bức nữa, khai thác HUỆ giác đến chỗ TÂM vô TÂM: “Nhơn vô tâm, ngưu diệc vô tâm”.

Đến đây mới phá được pháp chấp: pháp cũng không, mà ngã cũng không, trâu cũng mất mà người cũng mất, cảnh cũng quên mà tâm cũng quên. Trước hết trâu mất còn người. Rồi người cũng mất luôn. Đó là cảnh giới của Bồ tát: diễn tả bằng hai bức họa “tương vong” và “độc chiếu”, “Tâm cảnh song vong nãi thị chơn pháp

Từ đó, đi thêm bước nữa vào cảnh giới Như Lai, không nói được nên lời, mà chỉ có thể hình dung bằng một vòng tròn: Viên Giác. Đó là ý nghĩa của bức tranh cuối cùng (song dẫn) khép lại quá trình tu chứng theo TIỆM GIÁO, đi từ giới đến định và huệtừ thanh văn, duyên giác đến bồ tát, Phật, từ hữu tâm đến tâm và vô tâm, từ chỗ tất cả đều có đến nhân pháp đều không .v.v… Đó là vô dư Niết Bàn.

Tóm lại, “Thập mục ngưu đồ” vẽ lại quá trình công phu của người học đạo, trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, cuối cùng chỉ để tự tại thôi (être simplement). Cái vòng tròn cuối cùng (tranh 10: song dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả những nếp suy tư của chúng ta, cắt đứt một trạng thái ý thức và hiện hữu mà thường chúng ta không được biết”.

Hỏi: Vậy tóm lại tranh ngưu mục đồ khuynh hướng Đại thừa khác với khuynh hướng Thiền tông thế nào?

Trả lời: Chúng tôi chưa có dịp so dẫn sự sai khác, xin tóm lược về bộ tranh theo khuynh hướng Thiền tông để bạn tự rút ra kết luận.

Tranh Thiền Tông có loại vẽ con trâu đen, có loại vẽ con tru trắng. Trâu trắng là ý nói “bạch ngưu xa”, xe trâu trắng, tức là Phật thừa. Đạo Phật có ba thừa – ba cỗ xe – là xe dê, xe nai va xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ tát ra khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho người kém khí lực. Đối với hạng thượng căn chỉ một thừa thôi – Phật thừa – trực tiếp đưa người vào cảnh giới Phật thừa là “bạch ngưu xa”. Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn của Phật Thiền Tông chủ trượng trực tiếp thành Phật là vậy. 

Tuy nhiên, lý thuyết là lý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn hiếm hoi, ít được thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi, mộc mạc, gần cuộc sống hơn.

Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền đều giữ nguyên vẹn một màu lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là phép tu ĐỐN. Đốn giáo dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, “tự nhiên” mà thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực; xưa nay chưa hề có Phật cấp bực bao giờ nên người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt thành Phật, Phật chút chút, lai rai được.

Còn về thứ lời thì tranh Thiền Tông nào cũng mở đầu bằng bức họa tầm ngưu vẽ một chú mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) là khép lại bằng bức họa nhập triền thùy thủ (buông tay vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế tục.

Riêng về cái vòng tròn Viên Giác nằm ở bức họa thứ 10 của Đại Thừa, qua bên thiền Tông lại thụt lùi về hàng thứ 8, mà đề là “nhân ngưu câu vong”, nghĩa là trâu và người đều quên.

Về cách đặt tên, tranh Thiền tông có tên là: Tầm ngưu: tìm trâu; Kiến tích: thấy dấu; Kiến ngưu: thấy trâu; Đắc ngưu: được trâu; Mục ngưu: chăn trâu; Ky ngưu quy gia: cưỡi trâu về nhà; Vong ngưu tồn nhân: quên trâu còn người; Nhân ngưu câu vong: người trâu đều quên (vẽ vòng tròn); Phản bổn hoàn nguyên: trở về nguồn cội; Nhập triền thùy thủ: thõng tay vào chợ.

Cũng như ở hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiên vẫn là sự “hàng phục kỳ tâm”. Tâm của Đại Thừa là ngã tướng. Đến Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm. “Tôi tư duy, tức có tôi”. Niệm là ý nghĩ, tư duy, là intellect, được coi là phần tử cốt cán của cái “tôi”. Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt đứt suy tư, bất cứ suy tư gì. Vô niệm: niệm tức chánh. Hữu niệm: niệm thành tà. (Pháp hữu đàn kinh)

Do đó Thiền kỵ lý luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng của Đại Thừa đập vào óc thông minh mà loài người chúng ta hằng tự phụ.

Trong hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây này. Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật, như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng cần những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu hết các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác: tu thì tiệm mà chứng thì đốn.

THẬP MỤC NGƯU ĐỒ của Thiền tông cũng ghi lại bước tiến từng bực ấy trong thời gian và không gian. Chúng tôi xin trình bày bước tiến ấy theo ba đoạn đường: sai tâm bắt tâm – tâm vô tâm – bình thường tâm.

1. SAI TÂM BẮT TÂM:

Chú mục đồng đi tìm trâu (tranh 1). Tìm ở đâu ? Đâu cũng là hoang vu, là rừng rậm, là nẻo dọc đường ngang, chỉ có tiếng ve kêu rộn rã đầu cành. Rồi chú thấy dấu chân trâu (tranh 2), thấy thân trâu (tranh 3). Thì ra trâu có trốn đâu, tại chú không thấy đó thôi. Trâu vẫn đứng đó một mình, tự thuở nào, đôi sừng lẫm liệt, mũi đụng mây xanh. Rồi chú chụp lấy trâu (tranh 4), rồi xỏ mũi, cột cổ, đập đánh, canh chừng không rời mắt, quyết dũng mãnh để mà chiến thắng. Lần lần trâu thuần tánh ngoan ngoãn theo chú như bóng theo hình (tranh 5). Rồi chú cưỡi trâu về nhà, miệng thổi sáo, hát líu lo, lòng vui không nói được (tranh 6: kỵ ngưu quy gia).

Cưỡi trâu về nhà là cưỡi tâm về chỗ ban sơ. Người ta đi tìm tâm vì trong đôi giây phút khác thường nào đó, người ta đâm ngờ bản thân mình, cũng như ngờ những điều mắt thấy tai nghe. Có nghi mới có tìm. Có tìm ắt gặp dấu. Gặp dấu trong kinh sách, và nhất là trong những phút trống trải, cảnh vắng, đêm tàn, tri óc nhẹ suy tư, con người bỗng dưng như đối diện với chính mình trong một niềm đau thương và kỳ thú khó nói. Thế là bắt được dấu, con người phăng mối đi tình tâm.

Đó là giai đoạn cầu. Ngoại cầu là “khiến Phật đi tìm Phật, tâm đi bắt tâm” (Hy Vận). Tâm ở đâu mà bắt ? Thử coi: lần lượt qua sáu bức họa, ta thấy khoảng cách giữa trâu và người chăn trâu cứ thâu ngắn lại mãi cho đến rốt cuộc người chăn trâu ngồi hẳn trên lưng trâu, trâu với người nhập làm một. Vậy nên hỏi rằng tâm ở đâu chẳng khác nào hỏi trâu ở đâu trong khi chính ta đang cưỡi trên lưng trâu. Ta đã đuổi bắt tâm khắp đó đây, rốt cuộc mới nhật ra rằng târn ở nơi ta; ta chỉ cần dừng bước lại là nó hiện liền trước mắt, và sự vật hiện nguyên hình trong ánh sáng mới lạ.

Dừng bước lại: ai ngờ đâu cái việc làm hết sức là vô vi ấy lại có một thần lực nhiệm màu có thể thay đổi cả cục diện của một kiếp người, cả một lớp người. Nếu thỉnh thoảng loài người chúng ta biết dừng chân lại vài phút, ngồi im một chỗ vài phút – vài phút thôi – thì khuôn mặt của thế gian này chắc không đến đỗi quá nhăn nhíu như ngày nay.

2. TÂM VÔ TÂM

Tuy nhiên, còn tâm là còn cảnh. Còn cảnh thì còn “xúc cảnh sinh tình”. “Tình sinh thì trí cách”. Tâm, cảnh, tình kết dính vào nhau trong cái thế liên hoàn, cái vòng nhân duyên gây day dứt, mâu thuẫn.

Đạo không mâu thuẫn. Thiền là “bất nhị pháp môn”, không hai mà cũng không một Mâu thuẫn là do tâm, do niệm.

Ta niệm vì ta tưởng rằng mình thiếu một cái gì, nên đi tìm ở ngoài mình để đắp vào. Thiền dạy rằng ta không thiếu gì hết tự đời thuở nào ta vốn là tròn đầy, ngàn trước, ngàn sau. Ta không thiếu. Trái lại ta có dư: cái hại là ở đó. Ta dư đủ thứ do niệm bày ra, do suy tư vẽ vời thêm, đủ thứ. Những cái dư ấy, gọi chúng là vô minh. Vô minh vốn không thật, nên không ai hoài công mà trừ nó bao giờ, mà chỉ cần tự tri tự giác thôi. Tự biết được “con người thật”của mình thì vô minh tan mất, như bóng tối tan trước vừng dương. Phật dạy trong kinh Viên Giác: “Tri huyễn tức ly ,ly huyễn tức giác”, là vậy.

Cũng vậy, khi sư Huệ Khả ra mắt Tổ Đạt Ma xin pháp an tâm. Tổ dạy: Ngươi đem “tâm” lại đây ta “an” cho. Sư luýnh quýnh hồi lâu, sau đành thú thiệt: Con tìm mãi mà không thấy được tâm. Tổ dạy: Thầy đã “an” rồi cái “tâm” của con đó. Như vậy, cái việc mà ta quen gọi là phá vọng không còn là một việc làm nữa – nếu không nói là một việc làm VÔ VI – mà xét cùng ra chỉ là một sự nhận thức thôi, một prise de conscience – nhận thức tánh Phật bản lai ở trong ta.

Vậy sau giai đoạn ngoại cầu, tiếp theo là giai đoạn tự tri giác. Tự tri không phải bằng suy niệm mà bằng dứt niệm; dứt niệm bằng những phép tu tập rất vô vi, như tịnh quán chẳng hạn. Bằng tịnh quán, con người thấy, – xin nói rõ là thấy, là kiến, là tri kiến, chớ không phải là học, là nghĩ, hay nghe nói. (Tất cả bí quyết của sự chứng ngộ đều nằm ở chữ thấy đó) – Thấy tâm không thật, thấy người không thật.

Thấy tâm không thật thì tâm dứt: trâu quên (tranh 7: vong ngưu tồn nhân). Thấy người không thật thì người quên nốt (tranh 8: nhân ngưu cứu vong). Người và trâu đều quên, thì tự lòng đất dũng mãnh vọt lên mặt trời huệ: tượng trưng bằng cái vòng tròn Viên Giác (tranh 8). Đó là Tâm vô Tâm. “Biết cái tâm là không tâm, ấy là hiểu suốt đạo Phật”.

Sau đây, chúng tôi xin mượn lời giáo sư Thiền học Suzuki đóng lại đoạn này : “Đứng về mặt tâm lý, giác là vuợt ra ngoài vòng ràng buộc của bản ngã. Về mặt lý luận, giác là viên dung có và không” “Về mặt siêu hình, giác là trực ngộ được cái lẽ tự tại là luân hồi, luân hồi là tự tại” .

3. BÌNH THƯỜNG TÂM

Thiền cho rằng vô tâm chưa phải là đạo, mà còn phải qua một quan ải nữa: Mạc vị vô tâm vân thị đạo. Vô tâm do cách nhất trùng quan. (Trần Thái Tôn)

Thật vậy, trong đêm cuối cùng khi đức Phật ngồi ở cội bồ đề, Ngài lần lượt xuất và nhập ba từng cảnh giới tâm linh (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) tức là ngài còn phải thức tỉnh dậy nữa, nhờ ánh sao mai, để mà trở về với ý thức bình thường. Từ trạng thái “nhân cảnh câu bất đoạt”, Ngài phải trở về trạng thái “nhân cảnh cân bất đoạt”[2]để trả lại tất cả cho cuộc sống thường nhiên. Trở về là trở về với trời đất, với muôn sinh, với nguồn sống vô tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để như mọi người, “thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước”.

Trở về với trời đất – Trở về với trời đất với Pháp giới: đó là ý nghĩa của bức họa số 9, đề “Phản bản hoàn nguyên”, và vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn. Từ thuở nào, con người vốn là thanh tịnh, vốn là không, nên Thiền khỏi phải làm gì hết, chỉ cần thấy tánh là được trở về để mà nhập cuộc. Nhập cuộc là nhập vào cái trật tự tự nhiên không thỉ không chung của trời đất.

Trong trật tự ấy, chúng sanh là một pháp vô tâm nên vô sự. Viên sỏi bên đường là một pháp vô sự nên vô vi. Muôn pháp đều vô vi mà bình đẳng nhau trong Pháp giới vô ngại: nước chảy, hoa trôi, trăng lên, gió mát. Muôn vật đều vô ngại nên tự tại, không phải tự tại ở Niết Bàn, không phải tự tại trong phiền não mà tự tại trong KHÔNG: Niết Bàn và phiền não chỉ là trò ảo thuật của tâm. Trong trạng thái KHÔNG ấy, những danh từ thánh phàm phải trái, tỉnh mê, đều mất nghĩa: tất cả đều là đại đồng, ứng hóa từ một giác tánh, nên nhứt thiết không Niết Bàn. Không có Niết Bàn Phật. Không có Phật Niết Bàn (Lăng già). Tất cả cả là một. Một là tất cả. Một hột bụi chứa đủ ba ngàn thế giới. Ba ngàn thế giới là một hột bụi: đều là KHÔNG.

Trở về với thế tục là trở về với cái tâm bình thường. Thiền dạy: “Bình thường tâm thị đạo”. Quốc sư Phù Vân đời nhà Trần nói : “Lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình. “Lấy cái tâm của thiên hạ làm cái tâm của mình. Cái muốn ấy chính là cái muốn mà đức Khổng Tử phải chờ đến bảy mươi tuổi mới dám muốn, sau khi chứng lý vô ngã” : “Thất thập tòng tâm chi sở dục”. Chứng được đạo lý ấy thì là gì cũng hiệp đạo, “không theo không lìa, không dừng không dính, tung hoành tự tại, đâu cũng là đạo tràng” pháp nào cũng là Phật pháp, đi đứng nằm ngồi cũng là Phật pháp, chém rắn giết mèo cũng là Phật pháp, đói ăn khát uống cũng là Phật pháp.

Cho nên Tổ Tuệ Trung Trần Tung mới ung dung ngồi ăn thịt cá và nói: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm ra Phật, cũng như Phật chẳng cần làm ra anh. Hoàng hậu chẳng nghe Cổ Đức nói: “Văn Thù là Văn Thù, mà giải thoát là giải thoát” đó ư?” Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU ĐỒ thõng tay đi vào chợ, tay ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn với bợm nhậu và phường thọc huyết heo – “tụi nó và thầy đều là Phật cả mà” (tranh 10). Đó là vô trụ Niết Bàn.

Tóm lại, để gom hết yếu lý chung của mười bức tranh chăn trâu, chúng tôi xin chép lại bài kệ sau đây thay lời kết luận : Tầm ngưu tu phóng tích. Học đạo quý vô tâm. Tích tại, ngưu hoàn tại. Vô tâm đạo dị tầm .

Nghĩa: Tìm trâu cần phăng dấu. Học đạo cốt vô tâm .Dấu đâu thì trâu đó. Vô tâm đạo dễ tầm.

Theo Ngụy Định – CT