Đã đến lúc chuyển đổi sản lượng lúa sang GDP
Tình hình hạn hán trở nên ngày càng gay gắt, nguồn nước ngọt đầu nguồn không về đủ, nước mặn đang và sẽ xâm nhập vào đất liền ngày càng sâu hơn trên các quốc gia ven biển như VN.
Đã đến lúc chuyển đổi sản lượng lúa sang GDP
Tình hình hạn hán trở nên ngày càng gay gắt, nguồn nước ngọt đầu nguồn không về đủ, nước mặn đang và sẽ xâm nhập vào đất liền ngày càng sâu hơn trên các quốc gia ven biển như VN.
Trong thời đại tái cơ cấu nông nghiệp khi khí hậu biến đổi khôn lường, nước ngọt là tài nguyên thiên nhiên quý hiếm không tái tạo được thì chúng ta cần chọn hướng sản xuất thâm canh những cây trồng, vật nuôi theo các hệ thống canh tác làm giàu bền vững tại vùng nhiễm mặn, như hệ thống lúa – tôm, lúa – cá, cây ăn trái… thay vì chỉ chăm chăm vào cây lúa trong mùa nước mặn.
Tình hình hạn hán trở nên ngày càng gay gắt, nguồn nước ngọt đầu nguồn không về đủ, nước mặn đang và sẽ xâm nhập vào đất liền ngày càng sâu hơn trên các quốc gia ven biển như VN. Đây là hậu quả của những hành động phát triển kinh tế bằng những đường hướng không bền vững, khiến khí hậu ngày càng biến đổi một cách tai hại hơn cho kinh tế. So với các quốc gia khác, VN đang hứng chịu hậu quả này ngày càng nặng hơn, như chúng ta đang trải nghiệm từ mấy tháng nay. Riêng tại ĐBSCL, hàng trăm ngàn nông dân trồng lúa tại các vùng ven biển được bao đê ngọt hoá đang phải gánh chịu thiệt hại nặng nề; hàng triệu người đang thiếu nước sinh hoạt. Trong khi đó, cũng tại vùng ven biển có nước mặn lưu thông tự nhiên, nông dân lấy nước mặn vào ruộng mới thu hoạch lúa để nuôi tôm thì đang vui sướng chăm sóc đàn tôm phát triển tốt.
Mưa bão, ngập lụt, hạn hán đều là thiên tai chứ có ai muốn. Có người hỏi tại sao lúc thời điểm này thiên tai lại ghét nông dân trồng lúa của bốn tỉnh ven biển miền Tây dữ dội thế? Có rất nhiều lý do mà báo đài và các cấp thẩm quyền đã nêu, nhưng lý do thực tế nhất mà chỉ vài chuyên gia đã nói nhưng ít được phổ biến là thiên nhiên đã và đang phạt những ai cố trồng lúa trong điều kiện không thích hợp – tức là trong mùa không nước ngọt tại vùng mặn. Một điều đáng chú ý là trong sự kiện này, tiếng nói của những người “thấp cổ bé họng” lại ít được phổ biến, đó là những người nuôi tôm sau khi thu hoạch lúa của các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Hằng năm những nông dân thực hiện hệ thống canh tác lúa – tôm muốn có nước mặn để nuôi tôm nhưng phải đấu tranh với nông dân trồng lúa không cho nước mặn vào vùng này, rốt cuộc rồi cả lúa và tôm đều bị thiệt hại.
Không ai thấm thía bằng nông dân trồng lúa vùng mặn trong mùa nắng, giá lúa không được bao nhiêu mà rủi ro thì nhiều. Nông dân ở các vùng nước ngọt cũng có chung tâm trạng trên, suốt hơn 27 năm từ khi nước ta bắt đầu xuất khẩu gạo, đến nay hằng năm xuất hơn 6 – 7 triệu tấn gạo với giá rẻ mạt, không thể nào làm giàu được. Nhà nước đã thấy, nên đã ban hành Quyết định 899/QĐ-TTg cho phép các địa phương tái cơ cấu ngành nông nghiệp, cụ thể cho chuyển đất lúa sang nuôi trồng cây con có giá trị cao hơn lúa. Nhưng, tuy quyết định đã được ban hành từ tháng 6.2013 mà đến nay vẫn chưa có chuyển biến gì đáng kể tại các vùng đất ven biển không thích hợp trồng lúa trong mùa nắng. Bộ NN-PTNT và lãnh đạo các địa phương không có nước ngọt trong mùa nắng vẫn tiếp tục chỉ đạo dân tiếp tục trồng lúa, bất chấp những cảnh báo khoa học; thậm chí dự kiến một số dự án tiếp tục đắp đập ngăn mặn, giữ ngọt cho vùng mặn thiên nhiên để nông dân tiếp tục trồng lúa?!
Hạn, mặn sẽ còn khốc liệt
VN không phải là quốc gia duy nhất bị thiệt hại bởi tình trạng khí hậu biến đổi không lường từ thập niên vừa qua. Đặc biệt trong năm 2015 vừa rồi, nông nghiệp thế giới bị ảnh hưởng lớn bởi hiện tượng El Nino xuất phát từ vùng xích đạo đông Thái Bình Dương khi nhiệt độ mặt biển tăng cao hơn bình thường, dẫn đến thời tiết thay đổi khó lường.
Nhiệt độ nước biển tăng cao do hoạt động của con người thải ra ngày càng nhiều khí nhà kính vào khí quyển làm cho bầu khí quyển nóng lên thêm. Những tác động khác của con người làm đất đai bị hạn hán bao gồm đắp đập thuỷ điện hoặc đập chứa nước ở thượng nguồn con sông, khai thác rừng đầu nguồn quá giới hạn (để lấy gỗ hoặc để trồng cây lương thực), mở rộng vùng trồng trọt, nhất là trồng lúa, tiêu tốn quá nhiều nước ngọt trong mùa nắng ráo. Các chuyên gia khí tượng tiên đoán là đến tháng 8.2017 thì chu kỳ ngược của El Nino là La Nina sẽ xuất hiện mang đến ngập lụt cho các vùng hạn hán hiện nay.
Trong số các quốc gia dọc sông Mê Kông, đoạn chảy qua nước ta gọi là Cửu Long (nay chỉ còn Thất Long, vì sông Ba Lai ở Bến Tre bị bồi lắng cạn dần nên nhà nước cho đắp đập kín luôn để ngăn mặn, sông Ba Thắc trên Cù Lao Dung, Sóc Trăng đã bị phù sa bồi lấp tự nhiên không còn dấu vết), VN là quốc gia đầu tiên đã và đang lấy nước sông Tiền và sông Hậu nhiều nhất để mở rộng diện tích lúa có tưới trong mùa khô (đông xuân) từ hơn 35 năm nay, giúp sản lượng lúa tăng gấp 5 lần so với năm 1974, đạt 25,5 triệu tấn lúa năm 2014. Nhờ đó, VN đã vượt qua ngưỡng tự túc lương thực, xuất khẩu hằng năm 6 – 7 triệu tấn gạo. Theo gương VN, các nước khác dọc sông Mê Kông cũng mở thêm diện tích lúa cao sản ngắn ngày vụ đông xuân, từ Vân Nam (Trung Quốc) đến Lào và Campuchia. Và mới hai năm gần đây Thái Lan cũng đắp đập lấy nước Mê Kông về tưới cho vùng đông bắc khô cằn nghèo khó. Thêm vào đó, hệ thống trên 12 đập thuỷ điện trên dòng chính sông Mê Kông từ Vân Nam sang Lào chắc chắn ảnh hưởng xấu đến lượng nước cuối nguồn. Như thế khối lượng dòng chảy sông Mê Kông về đến ĐBSCL sẽ tiếp tục giảm, rõ nét nhất là trong mùa khô (đông xuân).
Theo các chuyên gia thuỷ văn nắm rõ lịch sử ngập lũ của vùng hạ lưu sông Cửu Long, sự cung cấp nước ngọt và sự ngập lũ của ĐBSCL bị ảnh hưởng đáng kể do lượng mưa trong mùa gió mùa tây nam mà hai hồ chứa lớn nhất là Tonle Sap (Biển Hồ) và Đồng Tháp Mười (ĐTM) xưa kia đã chứa nước cho cả vùng. Ngày nay, rừng đầu nguồn quanh Biển Hồ đã bị khai thác gần hết, đất bị xói mòn lấp cao đáy hồ nên lượng nước chứa lại không được bao nhiêu. ĐTM cũng không còn là vùng trũng như trước nữa, thay thế bởi trên 700.000 ha ruộng lúa 2 – 3 vụ/năm, nên đáp ứng nhu cầu nước tưới lúa bây giờ phải bơm từ sông Cửu Long chứ không thể từ hồ chứa ĐTM được. Mà nước sông bây giờ ngày càng giảm như đã nói trên đây!
Hướng phát triển bền vững cho vùng mặn
Trong quy hoạch cho cây lúa cao sản của ĐBSCL, từ khi chúng ta sử dụng lúa ngắn ngày, chúng tôi đã bố trí trồng hai vụ đông xuân và hè thu, để mùa lũ tự nhiên cho khai thác thủy sản thiên nhiên. Tại vùng ven biển nhiễm mặn trong mùa khô, chúng tôi cũng đã bố trí một vụ lúa trong mùa mưa, và khi dứt mưa thu hoạch lúa xong, lúc ruộng lúa đang còn sình lầy thì nông dân cho nước mặn lên ruộng để nuôi tôm, cá kèo, cua… đạt lợi tức trên 3 lần lúa với nước mặn. Như thế, chúng ta không cần chống mặn bằng những biện pháp quá tốn kém để cố trồng thêm vụ lúa.
Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta vẫn còn sống trong thời “tất cả cho an ninh lương thực”, địa phương nào có sản lượng lúa cao thì được cấp trên khen thưởng. Và với đường hướng đó người ta đã xem nước mặn là kẻ thù phải chống triệt để sản xuất lúa. Chỉ tội nghiệp cho hàng trăm ngàn nông dân mất cơ hội làm bạn với nước mặn để nuôi tôm để tăng gia lợi tức thay vì chịu số phận nghèo mãi vì trồng lúa.
Trong thời gian qua, nhiều nông dân gần nguồn nước mặn đã áp dụng kỹ thuật trồng lúa – nuôi tôm, trở nên khá giả. Nhiều nông dân khác trong vùng ngọt hóa đã lén phá đập ngăn mặn để lấy nước mặn nuôi tôm, đạt kết quả trong vài năm đầu rất khả quan, xây nhà mới, tậu nhiều vật dụng sang trọng. Tất cả họ đều hành động một cách tự phát, bất hợp pháp, ngược với chủ trương sản xuất lương thực của nhà nước. Những vuông tôm của họ được xây dựng nối tiếp nhau một cách vô tổ chức, nước thải từ vuông tôm này được vuông tôm kia hứng, làm cho bệnh tôm lây lan ngày càng trầm trọng, khiến nhiều người nuôi tôm trở nên sạt nghiệp sau vài năm làm giàu trước đó. Nhìn sang các nước Thái Lan, Philippines, Indonesia, công nghệ nuôi tôm được nhà nước cho đầu tư một cách khoa học, nông dân sản xuất rất yên tâm và hiệu quả cao.
Chúng tôi tin rằng đến thời điểm này tất cả chúng ta đang sẵn sàng bắt tay vào thực hiện NQ ĐH Đảng lần thứ XII, ĐH Đảng đổi mới, thì sự đổi mới trước tiên trong phát triển kinh tế VN là sự đổi mới tư duy, cách nghĩ và cách làm thế nào vừa sức với ngân sách quốc gia, sử dụng tài nguyên hợp lý sao cho đa số nông dân có thể bắt đầu làm giàu. Nông dân không thể làm giàu bằng lúa gạo, như kinh nghiệm 40 năm qua cho thấy rất rõ. Trồng lúa phải tiêu tốn khối lượng ngân sách khổng lồ, tiêu tốn khối lượng nước ngọt quý hiếm rất lớn đáng lẽ phải dành cho nước sinh hoạt của dân ven biển. Nhưng giá lúa thì luôn thấp mà đầu ra rất bấp bênh khiến nhà nước lại phải bỏ tiền ra mua tạm trữ, dân không lời được bao nhiêu. Chính sách “an ninh lương thực” đã làm tốt nhiệm vụ lịch sử từ lâu rồi, bây giờ phải sang chính sách “tái cơ cấu nông nghiệp”. “Phải mạnh dạn tái cơ cấu nông nghiệp, vì chúng ta không thể tiếp tục buộc nông dân sản xuất lúa bằng chi phí cao như thế để đem bán rẻ cho thế giới thụ hưởng. Trong Cộng ̣đồng kinh tế ASEAN (AEC) Philippines giàu hơn VN vì tập trung cho dân sản xuất cây trồng đắt giá như chuối, khóm, xoài, và nhiều cây công nghiệp khác, để mua gạo rẻ tiền do VN cung cấp; Malaysia tập trung sản xuất cọ dầu, cao su, rau cải cao cấp, để mua gạo rẻ tiền của VN; Indonesia cũng làm như thế. GDP đầu người của họ đều cao hơn ta là lẽ đương nhiên.
Trong thời đại tái cơ cấu nông nghiệp khi khí hậu biến đổi khôn lường, nước ngọt là tài nguyên thiên nhiên quý hiếm không tái tạo được thì chúng ta không nên xem nước mặn là kẻ thù mà là bạn tốt, để chọn hướng sản xuất thâm canh những cây trồng vật nuôi theo các hệ thống canh tác làm giàu bền vững tại vùng nhiễm mặn, như hệ thống lúa – tôm, lúa – cá, vườn cây ăn trái… để nhanh chóng tăng GDP bình quân đầu người VN như NQ ĐH XII đã đề ra. Chúng tôi kiến nghị Đảng và Nhà nước nên sớm chuyển đổi “sản lượng lúa” sang “GDP”. Địa phương nào làm cho người dân đạt GDP bình quân đầu người cao thì được biểu dương và mau thăng quan tiến chức.
GS Võ Tòng Xuân