Ôn tập theo hệ thống và chủ điểm
Nhiều thí sinh lo lắng trước việc ôn thi CĐ, ĐH môn văn: không biết phải ôn tập những phần nào, nội dung giới hạn kiến thức quá nhiều nên không biết bắt đầu ôn từ đâu…
Ôn tập theo hệ thống và chủ điểm
Nhiều thí sinh lo lắng trước việc ôn thi CĐ, ĐH môn văn: không biết phải ôn tập những phần nào, nội dung giới hạn kiến thức quá nhiều nên không biết bắt đầu ôn từ đâu…
|
Mặc dù xu hướng đề thi gần đây theo hướng gợi mở để tránh học tủ, học vẹt nhưng thí sinh cũng cần hình dung có bao nhiêu dạng đề bài sẽ ra để xây dựng dàn bài hợp lý. Ví dụ: về thơ có dạng đề phân tích/cảm nhận về một khía cạnh bao trùm bài thơ, hoặc một đoạn thơ. Chẳng hạn bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh), đề có thể yêu cầu về hình tượng “sóng” trong bài thơ hoặc vài đoạn thơ bất kỳ. Tương tự, về văn xuôi có các dạng đề bài phân tích/cảm nghĩ về nhân vật, tình huống, một khía cạnh như giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, bút pháp nghệ thuật… Các thể loại khác là văn chính luận, kịch… đều có cách, hướng phân tích riêng. Thế nên, điều cần thiết là thí sinh cần hình dung, xây dựng một dàn ý cho từng dạng đề bài để ôn bài có hệ thống, nhanh chóng và hiệu quả.
Lợi ích ôn theo hệ thống
|
Việc ôn tập theo hệ thống giúp thí sinh có cái nhìn theo nhóm thể loại. Cả chương trình ôn thi lớp 11 và 12 quy về các thể loại sau: văn chính luận, nghị luận; thơ ca; truyện ngắn, tiểu thuyết; tùy bút, bút ký; văn bản kịch.
Theo cách này, thí sinh sẽ ôn tập đúng hướng nội dung từng thể loại (vì mỗi thể loại có đặc trưng riêng) và tiên đoán trước dạng đề bài mà đề thi sẽ cho. Ví dụ, khi ôn các văn bản kịch (như Hồn Trương Ba, da hàng thịt) phải chú ý đến các mâu thuẫn xung đột kịch vì bản chất của kịch là xung đột, và tìm hiểu từ các mâu thuẫn ấy tác phẩm rút ra ý nghĩa gì? Hay khi ôn các tác phẩm thuộc thể loại chính luận (như Tuyên ngôn độc lập) chú ý nhiều nhất là nghệ thuật lập luận. Như vậy, dạng đề ra đối với văn bản chính luận phổ biến hơn cả là phân tích nghệ thuật lập luận của một phần tác phẩm hoặc toàn bộ tác phẩm…
Cũng cần có cái nhìn hệ thống toàn bộ giới hạn nội dung ôn thi. Giới hạn này nằm ở 2 bài khái quát văn học: Khái quát VHVN từ đầu TK XX đến CMT8 năm 1945 (lớp 11) và bài Khái quát VHVN từ CMT8 năm 1945 đến hết TK XX (lớp 12). Hai bài này giúp thí sinh hệ thống toàn bộ tác phẩm có trong nội dung ôn thi; nắm được các đặc điểm cơ bản của từng giai đoạn văn học (tính hiện đại hóa, cách mạng hóa, khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn…); nắm được từng tác phẩm thuộc giai đoạn nào của quá trình phát triển văn học; sự phân hóa của các xu hướng văn học (văn học lãng mạn, hiện thực, cách mạng), tác phẩm nào thuộc thời kỳ nào (chống Mỹ, chống Pháp, hoặc thời kỳ đổi mới sau 1975)… Từ đó có cơ sở hiểu đúng nội dung tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ, nghệ thuật, chính trị… của từng tác phẩm và chùm tác phẩm.
Chẳng hạn khi phân tích các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945, như Chí Phèo hoặc đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (Số đỏ) thì cần thấy đặc trưng của văn học hiện thực phê phán là gì? Đâu là ưu điểm, đâu là hạn chế… Hoặc như khi ôn tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa cần thấy đây là tác phẩm viết trong thời kỳ đổi mới sau 1975, nên chú trọng đến cảm hướng thế sự, đời tư, mang tính nhân bản, nhân văn về đời sống con người trong xã hội chứ không phải đề tài yêu nước, chống Pháp hay chống Mỹ…
Các chủ điểm cần lưu ý
Cần lưu ý dạng đề bài theo chủ điểm thường được ra trong các kỳ tuyển sinh gần đây.
Việc ôn tập theo chủ điểm giúp người học có cái nhìn trong quan hệ tương quan, so sánh nhiều tác phẩm. Như thế sẽ dễ nhớ và cũng không mất nhiều thời gian khi ôn.
Có nhiều chủ điểm như: về đề tài, chủ đề, hình tượng nhân vật, cảm hứng tư tưởng, bút pháp nghệ thuật, phong cách tác giả… Chẳng hạn về đề tài đất nước có các bài Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), Đất nước (Nguyễn Đình Thi); về đề tài tình yêu có Vội vàng (Xuân Diệu), Tương tư (Nguyễn Bính), Sóng (Xuân Quỳnh); về vẻ đẹp hình tượng người phụ nữ có các nhân vật Mị, cụ Tứ, người đàn bà hàng chài…; về vẻ đẹp của các con sông có sông Đà, sông Hương; về cảm hứng lãng mạn cách mạng có Tây Tiến, Việt Bắc, Vợ chồng A Phủ…; về khuynh hướng sử thi, chủ nghĩa anh hùng cách mạng có Việt Bắc, Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình…; về giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo có Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt…; về phong cách nghệ thuật, bút pháp sáng tác có các tác giả Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường…
Cần đổi mới cấu trúc đề thi tốt nghiệp môn sử Nhiều lần chúng tôi thắc mắc tại sao học sinh không mặn mà với việc học và chọn thi môn sử và tại sao ngoại ngữ là môn có tính ứng dụng để giao tiếp mà đề thi lại ra theo hình thức trắc nghiệm, còn môn sử thì không. Tôi cho rằng không hẳn do chương trình – sách giáo khoa, cũng không nên đổ lỗi cho cách dạy và học, mà cái chính là ở cách ra đề kiểm tra. Đề thi môn sử chỉ chú trọng đến việc tái hiện. Nghĩa là học sinh phải nhớ, phải thuộc thì mới làm bài được. Trong thời buổi công nghệ “số hóa” đang bủa vây giới trẻ, việc ra đề như thế làm học sinh ngán ngẩm. Theo tôi, việc ra một đề thi của môn nào phải nắm được đặc trưng, bản chất của môn ấy. Ví dụ, khi so sánh môn lịch sử với môn ngữ văn ta thấy bản chất có khác nhau. Nếu môn ngữ văn là đọc hiểu – cảm nhận – viết; thì môn lịch sử là nhớ – tái hiện – bình luận. Vì thế nên chăng Bộ GD-ĐT cần thay đổi cấu trúc đề thi môn lịch sử theo cấu trúc như sau: phần 1 (trắc nghiệm/nhớ ) – 4 điểm; phần 2 (viết/tái hiện) – 3 điểm; và phần 3 (viết/bàn luận: ý kiến cá nhân, dạng câu hỏi mở, về một sự kiện lịch sử ) – 3 điểm.
|
Trần Ngọc Tuấn
(Trường THPT Lý Tự Trọng, TP.HCM)