Được nhiều tổ chức quốc tế vinh danh, GS-TS Charles Cường Nguyễn không chỉ có các đóng góp quan trọng cho lĩnh vực robot ở Mỹ mà còn là nhà quản lý giáo dục khi giữ vị trí Hiệu trưởng Trường Kỹ sư – Đại học Công giáo Mỹ.
Giáo sư gốc Việt đưa robot Mỹ vào không gian
Được nhiều tổ chức quốc tế vinh danh, GS-TS Charles Cường Nguyễn không chỉ có các đóng góp quan trọng cho lĩnh vực robot ở Mỹ mà còn là nhà quản lý giáo dục khi giữ vị trí Hiệu trưởng Trường Kỹ sư – Đại học Công giáo Mỹ.
Ông cũng là người Việt đầu tiên được bổ nhiệm chức vụ hiệu trưởng một trường Đại học tại Mỹ. Nhân dịp GS Charles Cường Nguyễn về VN từ tháng 9 đến đầu tháng 10 vừa qua, Thanh Niên đã có cuộc phỏng vấn ông.
Thuyết phục NASA
Ông có thể kể lại quá trình để được tham gia vào các dự án lớn như dự án cánh tay robot của NASA?
Từ năm 1986, Cơ quan Không gian hàng không Mỹ (NASA) muốn thiết lập một trạm không gian để các phi hành gia có thời gian nghỉ ngơi và đi lại sửa những vệ tinh hư hỏng cũng như tiến hành nghiên cứu. Khi đó, NASA đặt ra 2 giải pháp thiết lập trạm không gian. Cách thứ nhất là đưa phi hành gia lên không gian xây dựng. Nhưng cách này rất nguy hiểm và có thể khiến nhiều phi hành gia mất mạng. Cách thứ hai là sử dụng robot.
Khi đó, tôi là một trong những giáo sư gốc Á đầu tiên của một Đại học Mỹ đề xuất phương án sử dụng robot để xây dựng trạm không gian. Tôi đã viết thư gửi NASA về đề xuất của mình. Theo đó, để thiết lập cấu trúc cho một trạm không gian, chúng ta cần bàn tay người máy có thể thao tác với độ chính xác lên đến 0,01 mm. Chính vì thế, giải pháp tôi đưa ra đồng nghĩa với việc phải chế tạo một trong những bàn tay robot có độ chính xác cao đầu tiên cho NASA.
Sau khi tôi trình bày, NASA quyết định đầu tư cho nghiên cứu này để phát triển bàn tay robot có độ chính xác cao. Đến năm 1994, NASA quyết định áp dụng bàn tay robot để xây dựng trạm không gian.
Một bài báo về việc GS Cường tham gia dự án của NASA
Đâu là khó khăn cho một người nhập cư để tham gia những dự án như thế tại Mỹ?
Vì mình là người gốc châu Á, nên điều đầu tiên là rất phải nỗ lực để có được sự tin tưởng của các đồng nghiệp Mỹ hay châu Âu. Thêm vào đó, để chinh phục được niềm tin của NASA hay các cơ quan khác của Mỹ cũng đầy khó khăn. Tôi cho rằng muốn chinh phục được phải đòi hỏi sự cần cù, làm việc siêng năng và quan trọng là chứng minh được năng lực bản thân.
Được biết, không chỉ có nhiều thành tựu trong nghiên cứu robot mà còn là một nhà quản lý giáo dục khi trở thành hiệu trưởng của Trường Kỹ sư thuộc Đại học Công giáo Mỹ (CUA) từ năm 2001. Hiện nay ông giữ chức vụ gì ở CUA?
Sau 16 năm làm hiệu trưởng (dean) cho Trường Kỹ sư – CUA thì nay tôi được trao vị trí Dean Emeritus. Có thể tạm hiểu đây là chức danh hiệu trưởng danh dự dành cho người từng có nhiều đóng góp trong vai trò hiệu trưởng ở đại học này. Đây là chức danh đến cuối đời. Từ trước đến nay, tôi là người thứ hai được trao cho vị trí Dean Emeritus ở CUA. Hiện tại, những hoạt động của tôi tại VN không chỉ đại diện cho trường kỹ sư mà là đại diện cho CUA.
Nỗ lực góp phần nâng tầm Đại học Việt
Ông có thể chia sẻ thêm về các hoạt động tại VN?
Tôi đại diện cho CUA làm việc với các trường THPT chuyên tại VN để thực hiện các hội thảo liên quan giáo dục. Tôi cũng tham gia tư vấn cho chương trình đảm bảo chất lượng cho các trường đại học như Trường đại học Bách khoa TP.HCM và Trường đại học Bách khoa Hà Nội. Hồi cuối tháng 9, tôi cũng có tổ chức một hội thảo ở Trường đại học Bách khoa TP.HCM cùng các lãnh đạo của trường phụ trách mảng đảm bảo chất lượng đào tạo. Các hoạt động ở một số trường Đại học VN mà tôi thực hiện là thuộc Chương trình BUILD-IT được bảo trợ bởi Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) thông qua kết hợp cùng Đại học bang Arizona (Mỹ). Mục tiêu của chương trình là cùng nâng cao chất lượng cho Đại học VN đạt chuẩn của Hệ thống Đại học ASEAN (ASEAN University Network – AUN).
Sắp tới, tôi dự kiến về VN từ 2 – 3 lần mỗi năm để thực hiện chương trình này. Các trường Đại học có thể sử dụng bộ tiêu chí của AUN cho chuẩn phát triển. Hiện chỉ có 2 trường Đại học ở VN sắp đạt chuẩn AUN.
Trong chương trình BUILD-IT thì tôi là người đứng đầu nhóm 4 là nhóm chuyên về chất lượng. Còn một số nhóm khác thì lo về chính sách, nghiên cứu…
Ông nhận xét các trường đại học VN gặp thách thức gì để đạt chuẩn AUN?
Muốn đạt tiêu chuẩn AUN thì phải thiết lập hệ thống tương xứng và đến nay chúng ta vẫn chỉ mới bắt đầu. Việc thiết lập hệ thống chính là khó khăn, thách thức. Và một thách thức khác là cách thức làm việc theo quy trình đảm bảo chất lượng vẫn chưa phổ biến ở VN, nên cần có thời gian thay đổi.
Ông Cường cùng vợ
Khi tham gia những chương trình hỗ trợ nâng cao chất lượng Đại học ở VN, ông có còn tham gia nghiên cứu?
Thực ra sau khi không còn trực tiếp điều hành Trường Kỹ sư – CUA thì tôi có thời gian nhiều hơn, nên tôi vẫn tiếp tục tham gia một số dự án robot. Hiện tại, tôi cùng các cộng sự phát triển robot phục vụ trong vật lý trị liệu. Lâu nay, mỗi khi cần tập vật lý trị liệu cho bệnh nhân, người ta cần phải có người chuyên trách hỗ trợ. Thực tế này gây khó khăn về nhân lực và chi phí. Chính vì thế, chúng tôi phát triển robot để hỗ trợ tập vật lý trị liệu cho bệnh nhân với các nội dung được lập trình để phần tập phù hợp cho từng bệnh nhân. Nhờ đó, bệnh nhân dễ dàng tập luyện mà không lệ thuộc về thời gian.
Cánh tay robot mà tôi phát triển cho trạm không gian của NASA còn được dùng làm nền tảng cho dự án lần này, và trước đây còn giúp hoàn thiện hệ thống gắn bom cho máy bay chiến đấu của không quân Mỹ. Tiếp đến, nền tảng công nghệ này còn giúp phát triển hệ thống cánh tay robot điều khiển từ xa cảm nhận được phản ứng. Đây là công nghệ Telerobotics. Ví dụ, khi điều khiển cánh tay trong không gian, người điều khiển tại trái đất vẫn cảm nhận được các phản hồi nếu như cánh tay trên đụng hay va chạm gì đó. Trong tương lai, nước Mỹ sẽ dần thay thế bằng công nghệ robot.
Từng tham gia phát triển công nghệ tối tân tại Mỹ và cũng có hoạt động ở VN, ông nhận xét thế nào về mặt bằng công nghệ ở VN?
Qua làm việc thực tế với các trường Đại học ở VN, tôi thấy mặt bằng công nghệ ở nước ta còn khá thấp. Đó là vì chúng ta còn thiếu nhiều máy móc tối tân. Bên cạnh đó, cách dạy ở Đại học VN còn mang nặng tính lý thuyết, thiếu sự kết nối với các doanh nghiệp để nâng cao tính ứng dụng.
VN còn nhiều khó khăn, thiếu điều kiện tài chính để có thể sớm sở hữu các thiết bị hiện đại, nhưng thế giới lại đang trong kỷ nguyên bùng nổ công nghệ. Vậy làm thế nào để VN có thể theo kịp?
Theo tôi, cách thứ nhất là chúng ta phải tận dụng các chương trình cải tiến chất lượng đào tạo để nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực ở VN.
Thứ hai, rất nhiều tập đoàn ở Mỹ muốn đầu tư vào VN nên họ rất cần đào tạo nhân lực cho VN. Đây cũng chính là một cơ hội nếu chúng ta liên kết với các tập đoàn lớn. Khi chứng minh được hiệu quả khi đầu tư vào VN, chắc chắn các tập đoàn toàn cầu sẵn bỏ tiền đưa máy móc về VN. Họ sẵn sàng đầu tư các phòng thí nghiệm hiện đại để sinh viên, học sinh nghiên cứu sáng tạo mà không phải tốn chi phí.
Làm việc trong dự án robot của NASA
Tất nhiên, quan trọng nhất vẫn là ngay từ cấp học nhỏ, chúng ta nâng cao chất lượng đào tạo bằng cách tăng cường kỹ năng thực hành cho học sinh, sinh viên. Đó chính là lý do mà kỳ này về VN, tôi đã đại diện CUA để đến nói chuyện với các trường trung học chuyên ở VN như Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong và chuyên Trần Đại Nghĩa (ở TP.HCM), Trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam (Hà Nội). Qua các hoạt động này, CUA muốn đưa sinh viên sang học ngay từ năm nhất. Tôi rất mong có thể góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo cho VN.
Cám ơn ông!
Tiểu sử
Sinh năm 1954 tại Đà Nẵng.
Năm 1971: du học bậc Đại học tại CHLB Đức.
Năm 1978: nhận bằng kỹ sư điện tử, đạt danh hiệu thủ khoa của Đại học Konstanz (Đức) rồi sang Mỹ.
Năm 1980: nhận bằng thạc sĩ của Đại học George Washington (Mỹ).
Năm 1982: được trao học vị tiến sĩ khoa học cũng tại Đại học George Washington.
Năm 1987: được phong PGS tại Đại học Công giáo Mỹ (CUA).
Năm 1992: trở thành giáo sư ngành kỹ thuật điện tử của CUA.
Từ năm 2001 – 2017: Hiệu trưởng Trường Kỹ sư – CUA.
Từ năm 2004 – 2007: Giám đốc Quỹ giáo dục VN (VEF).
Từ năm 2017 – nay: GS và là Hiệu trưởng danh dự (Dean Emeritus) của Trường Kỹ sư – CUA.
Các giải thưởng được trao:
– Giải thưởng Nghiên cứu xuất sắc của CUA (1989).
– Giải thưởng Giám đốc dự án xuất sắc của Trung tâm không gian Kennedy – Mỹ (1996).
– Giải thưởng Vinh danh của Đại học George Washington (2002).
– Giải Vinh danh trọn đời của Tổ chức World Automation Congress (2004).
– Giải thưởng Tầm nhìn lãnh đạo của Tổ chức Nghiên cứu và đào tạo kỹ thuật quốc tế (2007).
– Giải Thành tựu trọn đời của Liên hội Kỹ sư và kiến trúc sư thủ đô Washington – Mỹ (2009).
– Được bổ nhiệm làm thành viên Hội Tiến bộ khoa học Mỹ (2009).
– Giải thưởng Di sản châu Á của Hiệp hội Di sản châu Á (2014).
Nhà khoa học tiên phong hợp tác với VN
GS Charles Cường Nguyễn là một trong những nhà khoa học tiên phong của Mỹ trong hợp tác với VN về đào tạo bậc sau Đại học. GS đã triển khai hợp tác với nhiều Đại học ở VN, hướng dẫn nhiều sinh viên VN học tiến sĩ tại Mỹ, hỗ trợ các trường VN trong kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng.
Ông hiểu rất rõ những điểm mạnh – yếu của nền giáo dục bậc cao ở nước ta, tư vấn nhiều ý kiến quý báu cho các cấp lãnh đạo. Trường đại học Bách khoa – Đại học QG TP.HCM đã hợp tác với GS trong hơn 10 năm qua với nhiều thành quả, trong đó nổi bật nhất là sự tư vấn của GS cho quá trình đạt kiểm định chất lượng chuẩn ABET của Mỹ cho 2 ngành khoa học máy tính và kỹ thuật máy tính vào năm 2014. Tuy nhiên, ông cũng phải vượt qua nhiều khó khăn thực tế: Thời gian hạn chế, cự ly xa, nhiều cơ chế và quan điểm giáo dục còn khác biệt giữa 2 hệ thống, lực lượng mỏng và không đồng nhất… Điều này khiến các hợp tác chưa được triển khai trọn vẹn.
GS-TS Vũ Đình Thành (Hiệu trưởng Trường đại học Bách khoa TP.HCM)
Một người uyên thâm
Tôi biết GS Charles Cường Nguyễn từ năm 2016, khi Trường đại học Khoa học tự nhiên đăng ký kiểm định chất lượng theo bộ tiêu chuẩn của AUN.
Với tôi, GS Cường là một nhà khoa học, một nhà nghiên cứu, nhà giáo dục rất giỏi, rất thành công ngay trên đất Mỹ. Sự uyên thâm và tính chuyên nghiệp của GS Cường có thể dễ dàng nhận thấy qua các bài giảng và báo cáo của GS tại các hội thảo (từ nội dung đến cách thức trình bày, sự chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác với đồng nghiệp…). Dù rời đất nước từ những năm còn trẻ, sống và làm việc tại Mỹ, nhưng GS Cường nói tiếng Việt rất thành thạo, tinh tế và đặc biệt không ngừng học hỏi để nâng cao vốn tiếng Việt của mình. Ông đã giúp Trường đại học Khoa học tự nhiên chúng tôi rất nhiều trong công tác kiểm định chất lượng theo tiêu chuẩn AUN. Ông là một tấm gương sáng để mình học tập.
GS-TS Phan Tuấn Nghĩa (Phó hiệu trưởng Trường đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQG Hà Nội)
Nhà nghiên cứu hàng đầu nước Mỹ
Tôi đã làm việc cùng GS Charles Cường Nguyễn hơn 20 năm qua, tính từ khi chúng tôi hợp tác trong dự án của NASA. Charles thực sự là một nhà nghiên cứu hàng đầu về robot, có những đóng góp quan trọng từ những ngày đầu mà Mỹ đưa robot ra không gian với độ chính xác cực kỳ cao. Không những vậy, Charles còn đưa ra phương thức điều khiển thông minh cho robot và phát triển công nghệ này cho y khoa đầy hữu ích. Trong 16 năm làm Hiệu trưởng Trường Công nghệ – CUA, Charles cũng đã đưa trường này phát triển mạnh mẽ.
TS Kevin Cleary (Giám đốc kỹ thuật, Viện Nghiên cứu tiến bộ phẫu thuật nhi Sheikh Zayed – Mỹ)
Thầy đã tạo cơ hội cho nhiều sinh viên VN
GS Charles Cường Nguyễn là người thầy đã tạo cơ hội cho sinh viên VN được học tập và nghiên cứu tại Mỹ. Sự thành công cũng như những nỗ lực của thầy là một tấm gương sáng cho sinh viên VN noi theo. Với sự giúp đỡ của thầy, hiện có hơn 150 sinh viên đã và đang theo học tại CUA. Trong số đó, nhiều bạn đã hoàn thành thạc sĩ, tiến sĩ và nghiên cứu sau tiến sĩ ở CUA và nhiều trường danh tiếng khắp nước Mỹ. Nhiều sinh viên sau khi ra trường đều được nhận vào các công ty lớn như General Electric, Amazon, Google… Thậm chí làm việc cho chính phủ Mỹ.