23/12/2024

Cần có kiến thức để không trở thành nạn nhân ngạt khí

Vừa qua, vụ việc 7 bà cháu ở TP. Hồ Chí Minh bị ngạt khí do sử dụng máy phát điện chạy bằng dầu trong căn nhà đóng kín cửa khiến mọi người không khỏi bàng hoàng. Đã từng có nhiều vụ việc tương tự xảy ra, gây ra những cái chết thương tâm, báo động người dân phải có kiến thức để phòng tránh.

Cần có kiến thức để không trở thành nạn nhân ngạt khí 

 

Vừa qua, vụ việc 7 bà cháu ở TP. Hồ Chí Minh bị ngạt khí do sử dụng máy phát điện chạy bằng dầu trong căn nhà đóng kín cửa khiến mọi người không khỏi bàng hoàng.

Đã từng có nhiều vụ việc tương tự xảy ra, gây ra những cái chết thương tâm, báo động người dân phải có kiến thức để phòng tránh.

Những tình huống dễ gây ngạt

Những khí độc gây ra các vụ chết người chủ yếu là CH4, CO, CO2

Ngộ độc khí CO là một tai nạn thường gặp nhất trong các loại ngộ độc khí độc, thường gây tử vong và để lại di chứng thần kinh – tâm thần cao. CO xâm nhập cơ thể chủ yếu qua đường hô hấp… Các tổn thương đầu tiên của nhiễm độc CO xảy ra với hệ thần kinh trung ương (vỏ não, nhân dưới vỏ não, đồi thị) kéo theo tổn thương cả thần kinh ngoại biên. Bên cạnh sự phát triển các tổn thương thần kinh, CO còn gây rối loạn tuần hoàn mạch, làm tăng tính thấm của mạch máu, nhất là các mao mạch, gây xuất huyết ở hàng loạt các cơ quan: não, phổi, đường tiêu hóa. Trên thực tế, có rất nhiều ca ngộ độc khí do sử dụng máy phát điện hay sưởi ấm bằng than.

Khi sử dụng máy phát điện hoạt động trong không gian kín vô cùng nguy hiểm. Nó sẽ cháy yếm khí, sinh ra loại khí độc là CO, nhanh chóng chiếm chỗ của ôxy, hít vào sẽ gây ngạt. Nếu không cấp cứu kịp thời, để thiếu ôxy não lâu dẫn đến hôn mê, tử vong, cứu được cũng sẽ sống đời sống thực vật do não bị tổn thương. Đây là một chất khí không màu, không mùi, không gây kích thích, có khả năng khuếch tán mạnh. Nó thường xuất hiện trong khói của lò sưởi, bộ sưởi của xe ôtô, động cơ ôtô, lò sưởi điện, lò nướng than, máy phát điện. Khi nạn nhân nhận biết được mình bị nhiễm độc thì không còn khả năng phản kháng, gọi cấp cứu.

Nguy cơ ngộ độc khí cũng thường xảy ra ở các hầm mỏ, hố sâu, giếng đào… Các nạn nhân chết vì thiếu ôxy và hít phải các khí tích tụ lại dưới đáy hồ/hầm, bể kín. Những hoạt động chuyển hóa, phân hủy các chất hữu cơ làm bốc lên những luồng hơi chứa khí CO2, CH4 và các hợp chất lưu huỳnh. Những khí này đều nặng hơn không khí nên tích tụ lại ở chỗ thấp, không gian kín và hòa tan trong lớp nước bề mặt. Ở những giếng khơi, không gian kín cũng dễ là nơi tích tụ nhiều khí CO2. Những vụ tai nạn chết người trong tình huống này xảy ra chủ yếu do người đầu tiên xuống hầm kín rồi bị ngạt khí, ngất đi. Những người sau không có kinh nghiệm, lao xuống ngay để cứu và cũng gặp cảnh ngộ tương tự.

Một tình huống nữa dễ gây ngộ độc khí là các phòng máy lạnh có quá đông người. Tại Việt Nam, có những phòng học, phòng làm việc lắp máy lạnh nhưng số lượng người chật chội, máy lạnh chạy không đủ công suất. Bên cạnh đó, nhiều phòng máy lạnh không lắp đặt quạt hút, không khí trong phòng không luân chuyển kịp.

Lượng người quá đông thở ra lượng khí CO2 lớn. Khi chúng ta hít phải khí do chính mình thải ra, lượng CO2 trong máu tăng. Ban đầu nạn nhân có cảm giác hô hấp bị kích thích như thở nhanh hơn, nhưng để lâu nạn nhân sẽ bị ức chế, thở chậm dần và lịm đi. Nhiều trường hợp tài xế ngủ quên trong xe hơi bị tử vong cũng do nguyên nhân như trên.

 

Cần hướng dẫn trẻ kỹ năng thoát hiểm trong trường hợp cháy nổ.

Cần hướng dẫn trẻ kỹ năng thoát hiểm trong trường hợp cháy nổ.

 

 

 

Phòng ngạt khí như thế nào?

Khi ở trong phòng kín mà sử dụng máy phát điện hoặc đồ dùng sinh ra khí CO thì lúc cơ thể cảm thấy khó thở, hơi choáng, cần nhanh chóng dậy mở cửa phòng, tắt ngay các thiết bị hoặc ra ngoài phòng để không bị mệt mỏi do thiếu khí. Không đặt máy phát điện trong nhà, hay ở gầm sàn nhà, máy phát điện phải để cách xa cửa sổ và cửa chính đang mở. Tuyệt đối không dùng than tổ ong, than củi để sưởi trong phòng kín. Không nổ máy xe máy, xe ôtô trong phòng, trong gara kín gió, kín cửa.

Khi hầm khí biogas có hiện tượng đóng váng (màng sinh học dày lên) khiến khí lên ít, không nên tự ý vệ sinh hầm ngay mà cần báo cho cơ quan chuyên môn xử lý.

Hoặc cũng có thể tự xử lý, nhưng trước đó phải mở nắp hầm ủ khí một thời gian dài để khí mêtan bay hết, sau đó dùng gậy chọc phá màng sinh học, bơm nước vào để đẩy lớp váng ra. Sau khi chọc thủng lớp váng, phải chờ vài tiếng mới được mở nắp hầm. Tuyệt đối không tự xuống hầm ủ khí trong bất cứ trường hợp nào nếu không có sự kiểm tra và hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật.

Trong quá trình sử dụng, nếu khí biogas xì ra ngoài trong phòng kín hẹp có thể gây ngạt hoặc tạo hỗn hợp nổ với không khí, vì vậy cần mở cửa nhà bếp thông thoáng trước khi dùng.

Trước khi xuống giếng (kể cả giếng hay sử dụng) cũng nên có biện pháp thử xem dưới giếng có khí độc không. Nên làm thông thoáng khí dưới đáy giếng trước khi xuống. Có thể cắt một cành cây to nhiều lá buộc dây dài thả xuống đáy, rồi rút lên thả xuống nhiều lần trước khi cho người xuống. Hoặc có thể bơm khí để tạo sự thông thoáng vào trao đổi ôxy khí trời trước khi xuống giếng. Tuy nhiên, khi áp dụng các phương pháp trên thì khi xuống giếng người xuống cần đeo dây bảo hiểm và có người ở trên miệng giếng kéo lên khi có sự cố.

Nếu thấy có người bị ngạt khí, cần mở hết các cửa để không khí tràn vào và đưa ngay nạn nhân ra khỏi nơi có khí độc, nhanh chóng đưa tới bệnh viện cấp cứu, hạn chế di chứng. Trong trường hợp ngạt khí do hỏa hoạn, nạn nhân cần tìm khăn ướt ấp ngay vào mũi để bảo vệ đường hô hấp trong khi tự tìm cách thoát ra hoặc chờ người đến cứu. Người đến cấp cứu nạn nhân cũng cần nhanh chóng gọi thêm người hỗ trợ, đề phòng bị ảnh hưởng khí độc. Quá trình tới viện nếu nạn nhân thở yếu hoặc bất tỉnh, cần phải hà hơi thổi ngạt.

Cùng với những biểu hiện nhiễm độc CO do hoả hoạn, nạn nhân có thể xuất hiện thêm các triệu chứng của tình trạng say nóng, vết thương bị phỏng, do đó cần đưa nạn nhân ra khỏi đám cháy, nới lỏng quần áo, làm mát bằng quạt gió hoặc chườm khăn mát. Thực hiện sơ cứu các vết thương phỏng (nếu có) bằng cách sử dụng nước mát, sạch, dội nhẹ lên vết thương, chườm đá vùng bị phỏng và băng ép nơi tổn thương để chống thoát dịch. Sau đó nhanh chóng gọi điện thoại cấp cứu hoặc chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế gần nhất ngay khi có thể.