Tông du Malta – ĐTC chủ sự giờ cầu nguyện tại đền thánh Đức Mẹ Ta’ Pinu
Tông du Malta – ĐTC chủ sự giờ cầu nguyện tại đền thánh Đức Mẹ Ta’ Pinu
Đền thánh Ta’ Pinu
Đền thánh Ta’ Pinu là nơi hành hương nổi tiếng nhất của Malta. Nhà thờ được xây theo kiến trúc gô-tích với Thánh giá kiểu Latinh. Bên trong nhà thờ có lưu giữ rất nhiều lời khấn nguyện, bằng chứng lòng đạo đức bình dân của người dân Malta.
Vào những năm 1500, tại nơi này đã có một nhà nguyện nhỏ. Năm 1575, khi nhà nguyện bị bỏ hoang và hư hoại, đặc sứ của Đức Gregorio XIII đã ra lệnh phá bỏ nhà nguyện. Nhưng khi công việc mới bắt đầu thì một công nhân bị gãy tay. Sự việc được hiểu như là một dấu chỉ và do đó công việc phá dỡ nhà nguyện được dừng lại. Nhà nguyện ban đầu thuộc tài sản của dòng họ Gentili, sau đó được một người tên Pino Gauci mua lại; từ đó có tên Ta’ Pinu. Pino Gauci đã nới rộng và tu sửa nhà nguyện, đặt trong nhà thờ một bức ảnh Đức Mẹ Hồn xác lên trời do hoạ sĩ người Ý Amedeo Perugino vẽ. Bức ảnh vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay.
Sau khi bị đóng cửa trong vài thế kỷ, nhà thờ được mở lại khi một sự kiện lạ thường xảy ra. Theo lưu truyền, ngày 22/6/1883, khi đi ngang qua nhà thờ, bà Carmela Grima, một phụ nữ nhà quê, đã nghe một giọng nói yêu cầu bà đọc “ba kinh Kính Mừng, mỗi kinh cho một ngày khi thân xác Ta ở trong mồ.” Bà đã kể lại với người bạn và người này cho biết chính ông cũng nghe lời yêu cầu giống như thế khi ở gần nhà nguyện. Trong thời gian này hai người này cũng được chữa lành bệnh cách lạ lùng. Trong thời gian ngắn, tin tức của hai thị nhân này đã lan truyền khắp hòn đảo và nhà nguyện Ta’ Pinu trở thành nơi hành hương. Năm 1887, khi đảo Gozo tránh được trận dịch tả cách kỳ diệu, Đức giám mục đã cho phép cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại đây.
Để kỷ niệm 100 năm lần hiện ra đầu tiên, Đại hội Đức Mẹ Quốc tế lần thứ IX đã được tổ chức tại Malta vào tháng 9/1983. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cử hành Thánh lễ tại thềm đền thờ vào ngày 26/5/1990.
Đến gần đền thánh, Đức Thánh Cha chuyển sang dùng papamobile – xe mui trần của Đức Thánh Cha. Đến đền thánh, ngài đi xe vào lối bên cạnh, trong khi 3.000 tín hữu chờ đợi ngài tại quảng trường lớn.
Viếng Đức Mẹ
Tại cửa vào đền thánh, Đức Thánh Cha được cha giám đốc đền thánh chào đón. Sau đó ngài cùng với Đức Hồng y Mario Grech, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Tổng Giám mục của Malta và Đức Giám mục của Gozo tiến vào nhà nguyện của đền thánh. Đến trước ảnh Đức Mẹ, Đức Thánh Cha đã dâng kính Đức Mẹ một cành hoa hồng mạ vàng và đọc 3 kinh Kính Mừng, rồi ngài đến trước bàn thờ chính, chào và chúc lành cho các bệnh nhân hiện diện trong đền thờ và đi đến thềm đền thờ.
Hiện diện tại buổi cầu nguyện có đại diện của Giáo hội địa phương, có các thiếu nhi, thanh thiếu niên, người trẻ, các gia đình và các thành viên của các hiệp hội của Giáo hội; cũng có các vị đại diện chính quyền dân sự của đảo Gozo, cũng như rất đông linh mục, tu sĩ nam nữ và thành viên các tu hội đời.
Bắt đầu giờ cầu nguyện, Đức cha Anthony Teuma, giám mục của Gozo đã có lời chào mừng Đức Thánh Cha đến với Gozo, “một đảo nhỏ nhưng có trái tim vĩ đại”, chào mừng Đức Thánh Cha đến với “nhà của chúng con và của Mẹ chúng con – đền thánh Đức Mẹ Ta’ Pinu”.
Chứng từ cảm động của đôi vợ chồng Sandi và Domenico Apap
Tiếp đến là phần trình bày chứng từ. Đầu tiên là chứng từ của đôi vợ chồng Sandi và Domenico Apap, kết hôn được 29 năm và có một con gái và một cháu ngoại. Bà Sandi cho biết, 4 năm sau khi kết hôn, khi mới 23 tuổi, bà bắt đầu bị chứng đa xơ cứng. Cuộc sống của họ thay đổi khi các triệu chứng của căn bệnh của bà gia tăng và các ước mơ của tuổi trẻ cũng tan theo. Hiện nay tình trạng sức khoẻ của bà phức tạp hơn do không thể di chuyển và lại bị nhiễm Covid-19. Thật khó để chấp nhận căn bệnh này. Bà thường tự hỏi tại sao Chúa lại để cho tất cả điều này xảy ra. Nhiều lần bà kêu lên: “Chúa ơi, Chúa ở đâu?” Nhưng cũng có điều gì đó đã giúp bà không tuyệt vọng và bà nói, “Lạy Chúa, Chúa biết cuộc đời con. Con phó thác mọi sự trong tay Chúa.”
Còn ông Domenico thì nhìn nhận rằng bà Sandi vợ ông là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa ban cho gia đình. Ông nói: “Kinh nghiệm đau khổ mà chúng con đã trải qua và tiếp tục cùng nhau sống không chỉ không huỷ diệt chúng con hay làm chúng con xa cách nhau, nhưng liên kết chúng con hơn, củng cố chúng con trong tình yêu thương nhau như một gia đình.” Nhiều lần ông đặt câu hỏi với Chúa và không tìm được câu trả lời như mong muốn. Nhưng dần dần Chúa ban cho ông ơn hiểu rằng sứ vụ của ông là ở bên cạnh vợ và cùng bà vác thập giá. Ông nói: “Tôi học được rằng khi đau khổ được sống với tình yêu, nó không còn là đau khổ nữa mà trở thành niềm vui.”
Tiếp đến là chứng từ của Jennifer Cauchi, chia sẻ về sự an bình khi đến với Đức Mẹ và chứng từ của Francesco Pio Attard, với băn khoăn thao thức làm sao Giáo hội gìn giữ kho tàng đức tin, và thực hiện sứ vụ ngôn sứ…
Bài giảng của Đức Thánh Cha
“Giờ” của Chúa Giêsu và khởi đầu của Giáo hội
Sau bài Phúc âm trích từ Tin Mừng thánh Gioan, thuật lại những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, Đức Thánh Cha bắt đầu bài giảng với “giờ” của Chúa Giêsu, trong Tin Mừng thánh Gioan là giờ chết của Người trên thập giá, với hình ảnh Mẹ Maria và thánh Gioan đứng dưới chân Thánh Giá, khi “mọi sự dường như đã mất, đã hết, vĩnh viễn;” với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46; Mk 15,34), cũng là lời cầu nguyện của chúng ta vào những lúc đau khổ.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “giờ” chết của Chúa Giêsu “không có nghĩa là sự kết thúc của lịch sử. Nhưng nó đánh dấu sự khởi đầu của một sự sống mới.” Một giờ khác tràn đầy sự sống được bắt đầu. Đó là thời gian của Giáo hội. “Bắt đầu với hai người đứng bên dưới Thánh giá, Chúa sẽ quy tụ một dân tộc tiếp tục đi trên những nẻo đường quanh co của lịch sử, mang trong lòng mình sự an ủi của Thánh Linh, để lau khô nước mắt của nhân loại.”
Nói về đền thánh Đức Mẹ Ta’ Pinu, Đức Thánh Cha nhận xét rằng, từ một nhà nguyện nhỏ đang bị hư hỏng, sắp bị phá bỏ, một loạt các sự kiện sẽ xoay chuyển tình thế, ngôi nhà thờ nhỏ bé ấy đã trở thành đền thánh quốc gia, là điểm đến của những người hành hương và là nguồn sống mới. Một nơi từng bị nghĩ rằng đã bị bỏ rơi thì giờ đây làm sống lại đức tin và hy vọng trong Dân Chúa. Từ đó Đức Thánh Cha mời gọi đánh giá ý nghĩa của “giờ” của Chúa Giêsu đối với cuộc sống của chúng ta. Ngài nói: “Giờ cứu độ đó cho chúng ta biết rằng, để canh tân đức tin và sứ mạng chung của chúng ta, chúng ta được mời gọi trở về nguồn cội, trở về với Giáo hội sơ khai mà chúng ta nhìn thấy dưới chân Thánh giá nơi con người của Mẹ Maria và Thánh Gioan.”
Khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta
Theo Đức Thánh Cha, quay trở lại những nguồn cội, trước tiên, có nghĩa là khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta. Quay trở lại với Giáo hội sơ khai không có nghĩa là cố gắng tái tạo mô hình Giáo hội của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi; cũng không có nghĩa là lý tưởng thái quá cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. “Nhưng trở về nguồn cội là trở về với trọng tâm và khám phá lại cốt lõi của đức tin: tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu và việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới của Người”, như các môn đệ đầu tiên, như bà Maria Mađalena và Gioan, sau khi nhìn thấy ngôi mộ trống, với sự phấn khích tột độ đã vội vã trở về loan báo tin mừng Chúa phục sinh; như các tông đồ, mỗi ngày trong đền thờ và tại tư gia, họ không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu (Cv 5,42).
Một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới
Đức Thánh Cha lưu ý rằng đời sống của Giáo hội không bao giờ chỉ là “một quá khứ để tưởng nhớ”, nhưng là một “tương lai tuyệt vời để xây dựng”, luôn tuân theo các kế hoạch của Thiên Chúa. Chúng ta cần một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới trong cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, trong việc lắng nghe lời Người hằng ngày, trong việc tham gia tích cực vào đời sống của Giáo hội và trong lòng đạo đức bình dân đích thực. Ngài cảnh giác rằng chúng ta không được xem nhẹ sự khủng hoảng đức tin, sự thờ ơ thực hành tôn giáo, đặc biệt là hậu quả của đại dịch, và sự dửng dưng của nhiều người trẻ đối với sự hiện diện của Chúa khi nghĩ rằng, xét cho cùng, vẫn còn một tinh thần tôn giáo nhất định. Những nghi lễ hoành tráng không luôn là dấu chỉ của đức tin sống động.
Phát triển nghệ thuật chào đón tha nhân
Đức Thánh Cha giải thích tiếp rằng quay trở lại ban đầu cũng có nghĩa là phát triển nghệ thuật chào đón. Những lời của Chúa Giêsu trên Thánh giá, nói với Mẹ Người và với Thánh Gioan, kêu gọi chúng ta làm cho việc chào đón trở thành dấu ấn của người môn đệ. Việc thánh Gioan chào đón Đức Maria vào nhà ngài là một dấu hiệu cụ thể cho thấy chúng ta nên sống điều răn cao trọng nhất, giới răn yêu thương, như thế nào. Việc thờ phượng Thiên Chúa được thực hiện qua sự gần gũi với anh chị em của chúng ta.
Chào đón tha nhân: phép thử sự thấm nhuần tinh thần Tin Mừng
Việc chào đón nhau, nhân danh Chúa Kitô, vẫn mãi là một thách đố, trước hết là đối với các mối tương quan trong Giáo hội, vì việc truyền giáo của chúng ta sẽ sinh hoa trái nếu chúng ta cùng nhau làm việc trong tình bạn và tình hiệp thông huynh đệ. Nhưng theo Đức Thánh Cha, việc chào đón cũng là phép thử để đánh giá xem Giáo hội đã thấm nhuần tinh thần Tin Mừng đến mức độ nào. Chúng ta cũng không thể chào đón nhau trong các mái ấm của những ngôi nhà thờ đẹp đẽ, trong khi bên ngoài rất nhiều anh chị em của chúng ta phải đau khổ, bị đóng đinh bởi nỗi đau, sự nghèo đói và bạo lực.
Giờ cầu nguyện với kinh Magnificat, kinh Lạy Cha và phép lành Đức Thánh Cha ban cho cộng đoàn.
Rời đền thánh Đức Thánh Cha đi xe hơi trở lại cảng Mgarr cách đó 10km, từ đó ngài đi tàu 20 phút để đến cảng Cirkewwa của đảo Malta và từ đó Đức Thánh Cha di chuyển về Toà Sứ thần cách đó 21km để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ nhất trong chuyến viếng thăm Malta.