27/11/2024

Chương trình Đào tạo Mục vụ, Bài 1: Con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người

Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ “Vui mừng và Hy vọng” đã xác định rằng: “ Đối với những ai tin vào tình yêu Thiên Chúa, Người cho họ xác tín rằng con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người”[1], vì Thiên Chúa đã đặt tình yêu vào trong lòng con người như một dấu hiệu đặc biệt khi dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài.

 


Uỷ ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam

Chương trình Đào tạo Mục vụ

Bài 1

Con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

 

Lời mở

Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ “Vui mừng và Hy vọng” đã xác định rằng: “ Đối với những ai tin vào tình yêu Thiên Chúa, Người cho họ xác tín rằng con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người[1], vì Thiên Chúa đã đặt tình yêu vào trong lòng con người như một dấu hiệu đặc biệt khi dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài.

1.1. Một Trời yêu thương

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, dân tộc Việt Nam chúng ta tin vào Trời. Niềm tin ấy được diễn tả trong đời sống hằng ngày, trong những nghi lễ của vua chúa trên Tế đàn Nam Giao cũng như trong các lễ hội dân gian, được lưu trữ trong kho tàng văn hoá dân tộc qua những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích về bánh chưng, bánh giầy…

Trời không phải chỉ là khoảng không gian xanh thẳm trên đầu (Trời cao có mắt), nhưng là một Đấng quyền phép vô song, tạo dựng nên vạn vật (Trời sinh, Trời dưỡng; Con chim nó hót trên cành, Nếu Trời không có, có mình làm sao, Con chim nó hót trên cao, Nếu Trời không có, làm sao có mình?), nhìn thấu mọi sự và soi thấu lòng dạ khôn dò của con người (Trời nào có phụ ai đâu, Hay làm thì giầu, có chí thì nên). Vì thế, người ta cầu Trời ban cho mình những thứ cần thiết (Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp…). Trời là gương mẫu cho người ta noi theo, tạo thành một nền luân lý gọi là “đạo Trời” để con người tuân giữ (Dù ai nói ngược, nói xuôi, Ta đây vẫn giữ đạo Trời khăng khăng). Tất cả đều diễn tả tình yêu thương của Trời đối với muôn loài.

Khi đạo Công giáo được các thừa sai dòng Tên chính thức truyền vào Việt Nam trong khoảng năm 1615-1665, các ngài đã dạy cho dân tộc Việt Nam về đạo Trời đó, nhất là trong cuốn giáo lý Phép Giảng Tám Ngày của linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Trong cuốn sách đầu tiên được in bằng chữ quốc ngữ này, cha Đắc Lộ gọi Trời là Đức Chúa Trời[2] . Nhiều bản kinh chúng ta vẫn còn đang giữ tên gọi đó như kinh Mười Điều Răn, kinh Cám Ơn, kinh Tin Kính của các Tông đồ…

Trong dòng lịch sử dân tộc, người Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền văn học Trung Hoa. Đạo Trời của người Việt có một số nét tương đồng với đạo Khổng hay Nho giáo của người Tàu như “Thiên bất dung gian, Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Từ sau Công đồng Kẻ Sở năm 1924, nhiều sách vở Công giáo bắt đầu dùng từ Thiên Chúa, viết tắt bởi từ “Thiên địa chân Chúa”, có nghĩa là vị Chúa đích thực của trời đất, thay cho từ Đức Chúa Trời[3].

Thật ra khi cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Trời dành cho con người và vạn vật, người Việt dễ dàng đón nhận niềm tin của người Công giáo dành cho Thiên Chúa. Điều này đã được nhiều học giả ghi nhận: “Xưa kia chỉ biết kêu trời. Mà nay đã biết gọi Trời là Cha. Trần gian chẳng phải là nhà. Đi về vĩnh cửu gặp Cha trên Trời[4].

1.2. Tình yêu ở đây là gì ?

Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8.16), nghĩa là bản thể của Thiên Chúa là tình yêu được đưa vào trong bản tính của con người, nên tình yêu trong con người không còn chỉ là những cảm xúc dù mãnh liệt và có trách nhiệm[5] . Tình yêu nơi Kitô hữu còn là “một nhân đức, nghĩa là một năng lực được thủ đắc bằng huấn luyện[6] , vì thế chúng ta mới nói đến đức tin-đức cậy-đức mến, như thánh Phaolô đã giải thích cho chúng ta: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,7-8.13).

Sau hết, tình yêu còn là ân huệ cao quý hơn cả và tồn tại mãi mãi. Ân huệ này chỉ đứng sau ân huệ Con Một Thiên Chúa mà Cha Trên Trời ban cho ta. Tình yêu đó là chính Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu ban cho ta khi thổi Thần Khí của Người trên chúng ta. Đó cũng là “tình yêu của Cha Trên Trời đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần Ngài ban cho ta” (x. Rm 5,5) để hướng dẫn chúng ta như những người con tự do của Thiên Chúa, chứ không phải là những nô lệ sợ hãi, mà dân Do Thái xưa kia đã cảm nhận, và để chúng ta có thể nói lên hai tiếng “Abba, Cha ơi!” đối với Thiên Chúa như Thánh Phao lô nhắc nhở (x. Rm 8,14-17).

 

1.3. Con đường tình yêu

Con đường tình yêu đó cũng là chính Đức Giêsu thực hiện cho mỗi người chúng ta khi mời gọi chúng ta bước theo Người “anh em hãy theo Thầy”, vì Người chính là con đường dẫn đến sự thật giải thoát và sự sống vĩnh hằng (x. Ga 14,6). Người thúc giục ta: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

Vì thế, tình yêu của Ba Ngôi vừa là thực tại để chúng ta tôn thờ từng giây phút trong đời sống, đồng thời là một nhân đức để chúng ta luyện tập theo gương tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.

 

2. Những đặc tính của tình yêu Ba Ngôi

Chúng ta sẽ thấy ba đặc tính kỳ diệu trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi mà không một tôn giáo nào khác có thể dạy chúng ta như Kitô giáo. Đó là tình yêu sáng tạo của Chúa Cha, tình yêu cứu độ của Chúa Con và tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần.

2.1. Tình yêu sáng tạo của Chúa Cha

Tình yêu chân thật không bao giờ ích kỷ, đóng kín nơi mình, tự thoả mãn với mình, nhưng luôn luôn hướng về đối tượng mình yêu để chia sẻ tất cả những gì mình có. Đó là tình yêu của Chúa Cha. Từ tình yêu đó, Chúa Con đã sinh ra. Cũng nhờ tình yêu đó mà muôn loài muôn vật được tạo thành. Chúng ta thấy muôn loài đều phản ánh tình yêu trong sáng và tốt lành của Cha Trên Trời qua màu sắc của từng bông hoa, cánh bướm, đặc biệt là vẻ đẹp nơi mỗi con người. Chúng biểu lộ đặc tính chân thiện mỹ, hạnh phúc, bình an, niềm vui của tình yêu sáng tạo này.

Vì thế, chúng ta đang được mời gọi nhìn lại tình yêu của chính mình để xét xem tình yêu đó có thúc đẩy ta chia sẻ những gì mình có cho người khác không, nhất là cho những người nghèo khổ, dốt nát, yếu hèn, bệnh tật? Tình yêu của chúng ta có mang lại niềm vui, hạnh phúc và bình an cho họ không, hay lại khai thác, bóc lột, làm cho họ khốn khổ hơn khi chưa yêu ta? Tình yêu của ta có mang đặc tính chân thiện mỹ không hay nó giả dối, ác độc, xấu xa?

2.2. Tình yêu cứu độ của Chúa Con

Đặc tính cứu độ đã được diễn tả bằng những hành động cụ thể như Đức Giêsu đã làm trong cuộc đời trần thế của Người. Những hành động đó nhắc nhở rằng ta không được yêu chỉ bằng lời lẽ ngoài môi miệng, nhưng bằng những hành động tích cực thông thường trong đời sống[7] . Đức thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã gửi chúng ta lời nhắn nhủ rằng: “Được khích lệ từ lòng bác ái của Đức Kitô, người Kitô hữu chúng ta cảm thấy sự thôi thúc phải yêu thương anh em đồng loại. Người đó xem nhu cầu, nỗi đau và niềm vui của tha nhân như của chính mình. Các hoạt động trong mọi lĩnh vực của người tín hữu ấy luôn mang tính nối kết vững chắc với tha nhân. Mỗi hành động của họ đều năng động, rộng lượng và ân cần. Vì “đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật[8] .

Tình yêu cứu độ của Ngôi Con luôn mời gọi chúng ta dám hy sinh cho đến cùng như Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Chúng ta cảm nghiệm được sự hy sinh ấy của vạn vật trong từng bữa ăn mỗi ngày, cảm nghiệm được sự hy sinh ấy nơi cha mẹ hy sinh cho con cái, như người tình dám chết cho người mình yêu, như người chiến sĩ hy sinh mạng sống cho đất nước. Nếu tình yêu của ta không mang đặc tính cụ thể và hy sinh thì nó cũng không có tính cách cứu độ muôn loài của Chúa Con.

2.3. Tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần

Thánh hoá có nghĩa là hoá thành thánh như Thiên Chúa là đấng thánh, thần hoá có nghĩa là biến thành thần linh như Thiên Chúa. Vì thế, tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần luôn mời gọi chúng ta tôn trọng, nâng cao đối tượng mình yêu để giúp họ trở thành thần thánh, thành con cái Thiên Chúa như chúng ta, chứ không phải làm nhục, hạ thấp họ thành vật sở hữu của mình. Rất nhiều lần, do những tham vọng và dục vọng thúc đẩy, chúng ta đã hạ thấp, làm nhục đối tượng mình yêu, thậm chí biến người yêu thành phương tiện giải trí cho tham vọng và dục vọng hoặc bắt người yêu phải hành động như những con rối. Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta phải thay đổi thái độ ấy.

Lời kết

Chúng ta được mời gọi nhìn lại tình yêu của mình xem có mang những đặc tính sáng tạo, cứu độ và thần thánh hoá của Ba Ngôi không. Nếu chúng ta thể hiện những đặc tính ấy trong cuộc sống hằng ngày thì những anh em lương dân chắc chắn sẽ nhận ra rằng chỉ có Ba Ngôi Thiên Chúa của người Công giáo mới có thể thay đổi đời sống con người và xã hội của họ. Lúc đó họ mới dễ dàng tin theo Chúa Giêsu.

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao người Việt trước đây dễ đón nhân Đạo Trời?

2. Hãy mô tả những đặc tính chính của tình yêu theo Kitô giáo.


[1] (x. Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ “Vui mừng và Hy vọng” , số 38).

[2] (x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám Giáo Hội Công giáo Việt Nam Năm 2016, NXB Tôn Giáo, tr 175).

[3] (x. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ điển Công giáo, mục từ Thiên Chúa, 2016, tr 842).

[4] (x. Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn học Toàn Thư I, NXB Quốc Hoa, 1959).

[5] (x. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, tr 1284 )

[6] (x. Docat, câu số 16)

[7] (x. Ga 3,18; Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, số 38).

8 (1Cr 13, 4-6 ; x. Thông điệp Mater et Magistra, (1961), số 257; Docat  (2017), tr. 28).