23/12/2024

Khoá Thường huấn cho linh mục trẻ Liên giáo tỉnh: Bài 2: Lạm Dụng Tính Dục: Phương Sách Giải Quyết

Ngày 16-05 vừa qua, Bộ Giáo lý Đức Tin đã công bố Thư luân lưu nhằm giúp các Hội đồng Giám mục soạn thảo Bản Hướng dẫn giải quyết các trường hợp giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên.

 

Lạm Dụng Tính Dục: Phương Sách Giải Quyết

 

Paul Nguyễn Đình Vịnh, ofm

 

BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN

Thư luân lưu

để giúp các Hội Đồng Giám Mục

trong việc soạn thảo Bản Hướng Dẫn

giải quyết các trường hợp giáo sĩ lạm dụng tình dục

trẻ vị thành niên

WHĐ (23.05.2011) – Ngày 16-05 vừa qua, Bộ Giáo lý Đức Tin đã công bố Thư luân lưu nhằm giúp các Hội đồng Giám mục soạn thảo Bản Hướng dẫn giải quyết các trường hợp giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên.

 

Toàn văn Thư luân lưu:

Trong những trách nhiệm quan trọng của Giám mục giáo phận khi thi hành nhiệm vụ bảo đảm lợi ích chung của các tín hữu, nhất là bảo vệ trẻ em và những người trẻ, có một điều đó Giám mục phải giải quyết một cách thích đáng các trường hợp giáo sĩ trong giáo phận của ngài lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên. Một việc giải quyết như thế bao gồm sự tiến hành các thủ tục thích hợp nhằm giúp đỡ các nạn nhân bị lạm dụng, và cũng nhằm giáo dục cộng đồng dân Chúa về bảo vệ trẻ vị thành niên. Việc giải quyết sẽ phải được chuẩn bị đầy đủ nhằm thực thi giáo luật cách thích đáng, đồng thời, đáp ứng những yêu cầu của pháp luật dân sự.

 I. Tổng quan:

a) Những nạn nhân bị lạm dụng tình dục

Giáo Hội, qua đích thân Đức Giám mục hoặc vị đại diện của ngài, cần phải sẵn sàng lắng nghe các nạn nhân và gia đình của họ, đồng thời liệu cách giúp họ về tâm lý và tinh thần. Điều này đã được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI thực hiện, qua những chuyến tông du của ngài, như một mẫu gương sáng ngời về việc sẵn sàng gặp gỡ và lắng nghe các nạn nhân bị lạm dụng tình dục. Trong những cuộc gặp gỡ đó, Đức Thánh Cha hết sức quan tâm đến các nạn nhân, bày tỏ sự đồng cảm và nâng đỡ, như lời lẽ chúng ta đọc được trong “Thư mục vụ gửi Dân Chúa tại Ireland”: “Anh chị em đã phải chịu đựng đau khổ xiết bao và lòng tôi thật sự đau đớn. Tôi biết không gì xoá được nỗi đau anh chị em đã phải chịu. Niềm tin của anh chị em bị phản bội và phẩm giá của anh chị em bị xúc phạm”.

b) Bảo vệ các trẻ vị thành niên

Tại một số quốc gia, nhằm bảo đảm cho trẻ vị thành niên được sống trong những “môi trường an toàn”, các chương trình giáo dục và ngăn ngừa đã được khởi xướng ngay trong Giáo Hội. Các chương trình này tìm cách giúp đỡ phụ huynh cũng như những người làm công tác mục vụ và trường học nhận ra những dấu hiệu của sự lạm dụng và có biện pháp thích hợp. Những chương trình như thế thường được xem là mô hình trong việc dấn thân chấm dứt các trường hợp lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên trong xã hội ngày nay.

c) Việc đào tạo các linh mục và tu sĩ tương lai

Năm 2002, Đức Gioan Phaolô II tuyên bố: “Không có chỗ trong hàng ngũ linh mục và đời sống tu trì dành cho những kẻ có thể sẽ làm hại giới trẻ” (Huấn từ trong cuộc tiếp kiến các Hồng y Hoa Kỳ, 23-04-2002, số 3). Phát biểu này kêu gọi tinh thần trách nhiệm đặc biệt của các Giám mục, các bề trên thượng cấp và những ai có trách nhiệm đào tạo các linh mục và tu sĩ tương lai. Những chỉ dẫn được đưa ra trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis cũng như hướng dẫn của các Bộ có thẩm quyền của Tòa Thánh đều nhấn mạnh phải bảo đảm phân định đúng ơn kêu gọi cũng như đào tạo các ứng viên có được sự lành mạnh về nhân bản và đời sống thiêng liêng. Đặc biệt, ứng viên phải được đào luyện để quý trọng giá trị của sự khiết tịnh, đời sống độc thân và trách nhiệm của người giáo sĩ đối với tình phụ tử thiêng liêng. Việc đào tạo cũng phải bảo đảm sao cho các ứng viên hiểu rõ được kỷ luật của Giáo Hội về các vấn đề này. Những hướng dẫn cụ thể hơn có thể được lồng vào các chương trình đào tạo trong các chủng viện và các cơ sở huấn luyện thông qua Ratio institutionis sacerdotalis (Định chế và chỉ dẫn về đào tạo linh mục) riêng của mỗi nước, Học viện Đời sống Thánh hiến và Tu đoàn Tông đồ.

Hơn nữa, phải đặc biệt lưu ý cần có sự trao đổi thông tin đối với những ứng viên linh mục hoặc tu sĩ chuyển từ chủng viện này sang chủng viện khác, giữa các giáo phận khác nhau hoặc chuyển giữa các Dòng với các giáo phận.

d) Nâng đỡ các linh mục

1. Giám mục có trách nhiệm coi sóc mọi linh mục của mình như một người cha và người anh. Hơn nữa, ngài phải đặc biệt lưu tâm chăm lo việc thường huấn hàng giáo sĩ, nhất là những năm đầu sau khi thụ phong, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cầu nguyện và nâng đỡ nhau trong tình anh em linh mục. Các linh mục cần được thông tin về những thiệt hại gây ra cho các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tình dục. Các linh mục cũng phải được biết về trách nhiệm của bản thân về phương diện giáo luật cũng như pháp luật dân sự. Các linh mục cần phải được giúp đỡ để nhận ra có những dấu hiệu cho thấy người nào đó đã có hành động lạm dụng đối với trẻ nhỏ.

2. Trong việc giải quyết các trường hợp lạm dụng được trình báo, các giám mục phải hết sức tuân thủ kỷ luật của giáo luật và pháp luật dân sự, với sự tôn trọng các quyền của tất cả các bên.

3. Giáo sĩ bị cáo buộc được coi là vô tội cho đến khi có bằng chứng ngược lại. Tuy nhiên giám mục vẫn có thể hạn chế việc thi hành tác vụ giáo sĩ cho đến khi các cáo buộc được làm sáng tỏ. Nếu vụ việc đã được sáng tỏ, cần phải làm tất cả những gì có thể để phục hồi thanh danh cho giáo sĩ bị vu cáo.

e) Hợp tác với chính quyền dân sự

Lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên không chỉ là một tội phạm về mặt giáo luật mà còn là một tội phạm bị truy tố bởi luật dân sự. Mặc dù quan hệ với chính quyền dân sự có sự khác biệt tại các quốc gia khác nhau, tuy nhiên điều quan trọng là hợp tác với nhà chức trách trong trong phạm vi trách nhiệm của họ. Cụ thể, cần phải luôn luôn tuân theo những quy định của pháp luật dân sự về việc tường trình các tội ác cho nhà chức trách miễn là không không phương hại tòa trong thuộc về bí tích. Hơn nữa, sự hợp tác này không chỉ liên quan đến các vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục mà kể cả các tu sĩ hoặc giáo dân đang làm việc trong các cơ cấu của Giáo Hội.

 

II. Tóm tắt giáo luật hiện hành liên quan đến giáo sĩ phạm tội lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên

Ngày 30 tháng Tư năm 2001, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành Tự sắc (Motu proprio) Sacramentorum sanctitatis tutela [SST, Bảo vệ sự thánh thiện của các Bí tích], theo đó tội lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi mà một giáo sĩ mắc phải được liệt vào số các tội nặng hơn (delicta graviora) được dành cho Bộ Giáo lý Đức Tin. Thời hiệu cho tội phạm này được ấn định 10 năm kể từ lúc nạn nhân tròn 18 tuổi. Luật của Tự sắc được áp dụng cho cả giáo sĩ theo nghi lễ La tinh cũng như nghi lễ Đông phương, cũng như cho cả giáo sĩ giáo phận và giáo sĩ dòng.

Vào năm 2003, Đức Hồng y Ratzinger, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức Tin, đã được Đức Gioan-Phaolô II ban cho một số năng quyền đặc biệt để linh hoạt hơn trong việc tiến hành các thủ tục hình sự liên quan đối với các tội nặng hơn này. Các biện pháp gồm có việc sử dụng tố tụng hình sự về hành chính và việc yêu cầu ra khỏi hàng giáo sĩ tự sở quyền (ex officio) trong những trường hợp nghiêm trọng hơn. Hiện nay những năng quyền này được đưa vào trong Tự sắc duyệt lại được Đức Bênêđictô XVI phê chuẩn ngày 21 tháng Năm 2010. Theo những luật mới, trong trường hợp lạm dụng trẻ vị thành niên, thời hiệu được nâng lên 20 năm, tính từ lúc nạn nhân tròn 18 tuổi. Tùy trường hợp, Bộ Giáo lý Đức Tin có thể bỏ qua thời hiệu này. Về mặt giáo luật, tội tàng trữ, sở hữu hay phát tán ảnh khiêu dâm trẻ em cũng được nói đến trong Tự Sắc duyệt lại này.

Trách nhiệm giải quyết các trường hợp lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên trước hết là của các Giám mục hoặc của các Bề trên thượng cấp. Nếu lời cáo buộc có vẻ là thực, thì Giám mục hay Bề trên thượng cấp hay vị đại diện của các ngài phải tiến hành điều tra sơ bộ, theo khoản 1717 của Bộ Giáo luật, khoản 1468 của Bộ giáo luật cho các Giáo Hội Đông phương và khoản của 16 của Tự sắc SST.

Nếu lời cáo buộc được xét là đáng tin, thì trường hợp đó phải trình cho Bộ Giáo lý Đức Tin. Sau khi xem xét, Bộ Giáo lý Đức Tin sẽ chỉ ra những bước tiếp theo phải làm. Đồng thời, Bộ Giáo lý Đức Tin sẽ đưa ra những chỉ dẫn để chắc chắn rằng các biện pháp thích hợp được thực hiện, vừa bảo đảm một vụ xử công bằng đối với các giáo sĩ bị cáo buộc, trong sự tôn trọng quyền biện hộ căn bản của họ, vừa để bảo vệ lợi ích của Giáo Hội, gồm cả lợi ích của các nạn nhân. Về điểm này, cần lưu ý rằng, việc áp đặt một hình phạt vĩnh viễn, như việc loại khỏi hàng giáo sĩ, thông thường đòi hỏi một vụ tố tụng tư pháp hình sự. Theo Giáo luật (x. khoản 1342), Đấng Bản Quyền không được tuyên án phạt vĩnh viễn bằng những nghị định ngoại tư pháp. Vụ việc phải trình cho Bộ Giáo lý Đức Tin và Bộ sẽ đưa ra phán quyết chung cuộc về tội phạm của giáo sĩ và tư cách thi hành thừa tác vụ của giáo sĩ ấy, cũng như việc ra hình phạt vĩnh viễn sau đó (SST, khoản 21, §2).

Các biện pháp giáo luật áp dụng đối với một giáo sĩ bị coi là lạm dụng tình dục một trẻ vị thành niên thường thuộc hai loại: 1) các biện pháp hạn chế triệt để tác vụ công khai hay ít ra cấm bất kỳ tiếp xúc nào với các trẻ vị thành niên. Các biện pháp này có thể gia tăng bằng một giới luật hình sự ; 2) các hình phạt của Giáo Hội, với hình phạt nặng nhất là loại khỏi hàng giáo sĩ.

Trong một vài trường hợp, theo yêu cầu của chính vị giáo sĩ, việc miễn chuẩn các bổn phận của hàng giáo sĩ, gồm cả luật độc thân, có thể được chấp thuận vì lợi ích của Giáo Hội (pro bono Ecclesiae).

Việc điều tra sơ bộ và toàn bộ vụ án phải được thực hiện với sự tôn trọng tính riêng tư của những người có liên quan và quan tâm đến thanh danh của họ.

Trừ phi có những lý do nghiêm trọng ngược lại, trước khi vụ án được trình lên Bộ Giáo lý Đức Tin, vị giáo sĩ bị cáo buộc phải được báo cho biết về cáo buộc chống lại ngài, và được có cơ hội đáp lại cáo buộc ấy. Khi điều tra sơ bộ, với sự khôn ngoan giám mục sẽ quyết định báo cho người bị cáo buộc những gì.

Bổn phận của Giám mục hay của Bề trên thượng cấp vẫn là đảm bảo công ích bằng cách ấn định sử dụng các biện pháp phòng ngừa nào trong khoản 1722 của Bộ Giáo luật và khoản 1473 của Bộ Giáo Luật của các Giáo Hội Đông Phương. Theo điều 19 của Tự sắc SST, một khi bắt đầu cuộc điều tra sơ bộ, bổn phận này phải được thực thi.

Sau cùng, cần lưu ý rằng, khi một Hội đồng Giám mục muốn đề ra những luật riêng, không cần được Tòa thánh chuẩn nhận, thì các điều luật ấy phải được hiểu như là một bổ túc chứ không phải thay thế cho luật lệ phổ quát. Vì thế các điều luật đặc thù ấy phải hài hòa với Bộ Giáo luật CIC/CCEO và với Tự sắc Sacramentorum sanctitatis tutela (30-04-2001), đã được cập nhật ngày 21-05-2010. Trong trường hợp Hội đồng Giám mục quyết định thiết lập những luật ràng buộc, cần phải xin các Bộ có thẩm quyền của Giáo triều Rôma phê chuẩn.

 III. Những đề nghị với các Đấng Bản quyền về các thủ tục:

Bản Hướng dẫn do Hội đồng Giám mục soạn thảo phải đề ra hướng dẫn cho các giám mục giáo phận và các bề trên thượng cấp khi các ngài được thông báo về các trường hợp được cho là lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên do các linh mục đang sống trên địa hạt thuộc quyền tài phán của các ngài vi phạm. Bản Hướng dẫn này phải lưu ý đến những điểm sau đây:

a) khái niệm “lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên” phải phù hợp với định nghĩa tại khoản 6 của Tự sắc SST (“tội phạm điều răn thứ sáu do một giáo sĩ vi phạm với một trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi), cũng như với cách giải thích và với án lệ của Bộ Giáo lý Đức Tin, đồng thời lưu tâm đến luật dân sự của quốc gia ấy.

b) người tố giác tội phạm phải được đối xử cách tôn trọng. Trong những trường hợp việc lạm dụng tình dục có liên quan với một tội phạm khác nghịch với phẩm giá của bí tích Sám hối (SST, khoản 4), người tố giác có quyền đòi hỏi giữ kín tên mình đối với vị linh mục bị cáo buộc (SST, khoản 24)

c) thẩm quyền Giáo Hội phải cam kết giúp đỡ các nạn nhân về mặt tinh thần và tâm lý.

d) việc điều tra những cáo buộc phải được thực hiện với sự tôn trọng nguyên tắc riêng tư và thanh danh của những người có liên quan.

e) trừ phi có những lý do trái ngược nghiêm trọng, cả trong giai đoạn điều tra sơ khởi, phải báo cho vị giáo sĩ bị cáo buộc và đồng thời cho ngài cơ hội trả lời.

f) các cơ quan tư vấn điều tra và thẩm định từng trường hợp, được dự kiến nơi một số nước, không được thay thế việc phân định và thẩm quyền quản trị của mỗi giám mục.

g) bản Hướng dẫn phải cân nhắc đến pháp luật của quốc gia nơi có Hội đồng Giám mục, đặc biệt khi có liên quan đến bổn phận phải thông báo cho các nhà chức trách dân sự.

h) đang khi thi hành kỷ luật hay diễn ra vụ án hình sự, vị giáo sĩ bị cáo buộc vẫn phải được hưởng phương tiện sinh sống xứng đáng và công bằng.

i) một giáo sĩ không được công khai thi hành tác vụ trở lại, nếu tác vụ ấy gây nguy hiểm cho trẻ vị thành niên hay trở thành gương xấu cho cộng đoàn.

 

Kết luận:

Bản Hướng dẫn do Hội đồng Giám mục đề ra nhằm bảo vệ trẻ vị thành niên và giúp các nạn nhân có được sự trợ giúp và hòa giải. Bản Hướng dẫn cũng chỉ ra rằng trách nhiệm giải quyết các tội giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên trước tiên là của giám mục địa phận. Cuối cùng, Bản Hướng dẫn này sẽ dẫn đến một định hướng chung trong mỗi Hội đồng Giám mục, bằng cách giúp cho các nỗ lực của từng giám mục trong việc bảo vệ các trẻ vị thành niên phối hợp với nhau tốt hơn.

 Roma, Bộ Giáo lý Đức Tin, ngày 03 tháng Năm 2011

Hồng y William Levada,

Bộ trưởng

 Luis F. Ladaria, S.J,

Tổng Giám mục hiệu tòa Thibica

Thư ký