18/11/2024

Chúa Nhật 12.03.2023
Giếng Cứu Độ

Chúa Nhật Tuần III – Mùa Chay

Xh 17,3-7 • Tv 94,1-2.6-7a.7b-9 (Đ. c.7b.8a) • Rm 5,1-2.5-8 • Ga 4,5-42

 

CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT III MÙA CHAY- A | Giáo Phận Bà Rịa

Lời Chúa
✠ Bài trích Phúc Âm theo thánh Gioan

5 Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. 6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” 8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” 11 Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? 12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” 13 Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” 16 Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” 17 Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo: “Chị nói: ‘Tôi không có chồng’ là phải, 18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” 19 Người phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ … 20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” 21 Đức Giê-su phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. 23 Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” 25 Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” 26 Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”

27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy cần gì vậy?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy?” 28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 29 “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” 30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” 32 Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” 33 Các môn đệ mới hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” 34 Đức Giê-su nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35 Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! 36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”

39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. 40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. 42 Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”

(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ)

Suy niệm
Giếng Cứu Độ

Cây đa, giếng nước, sân đình vốn là những hình ảnh quen thuộc của người Việt chúng ta. Theo cách liên tưởng của dân gian, cây đa bao hàm một ý nghĩa thiêng liêng. Đây là nơi cư ngụ của các thần linh. Sân đình lại là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ trong những kì lễ hội, là nơi hẹn hò và gặp gỡ của các bạn trẻ. Còn giếng nước là nơi gắn liền với cuộc sống thường ngày của người dân: gánh nước, rửa rau, vo gạo, chuyện trò, … Hình ảnh giếng nước còn có ý nghĩa hơn khi nó phản chiếu lối sống của cả xóm làng. Sự phản chiếu này không những được thể hiện qua bề mặt của giếng, nơi mà mọi người tự nhìn thấy mình và tự nhận ra mình, tự ngắm mình trong chiều sâu của truyền thống, nó còn được thể hiện qua cách ăn mặc, giao tiếp, xưng hô, … Như vậy giếng nước vừa là nơi gặp gỡ, chuyện trò thường ngày vừa là nơi mọi người thể hiện sự gắn bó của mình vào một lối sống cụ thể.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã tiếp chuyện với một người phụ nữ Samaria nơi bờ giếng vào lúc giữa trưa. Đây là thời điểm mà mặt trời chiếu rõ nhất, một thời điểm phù hợp cho sự mạc khải. Chúa Giêsu sắp mạc khải một điều gì đó hay là Người sẽ mạc khải về chính mình. Trước hết, Người đã vượt qua những thành kiến ngăn cách người Do Thái và người Samaria để bắt đầu cuộc đối thoại. Lời đầu tiên trong cuộc đối thoại là một lời van xin: “Chị cho tôi xin chút nước uống”. Lời van xin này làm kinh ngạc người nữ. Một người nam Do Thái lại tự hạ mình để xin nước uống từ tay một người nữ xứ Samaria. Thế nhưng, chúng ta lại kinh ngạc hơn khi lắng nghe lời van xin này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể. Tại sao Thiên Chúa lại khiêm nhường chấp nhận thân phận của loài người làm nơi cư ngự cho Người? Không những thế, Thiên Chúa còn van xin chúng ta đón nhận Người hay nói đúng hơn là nhìn nhận sự hiện diện của Người trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Xưa kia, Người đã hiện hữu trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria, hôm nay Người cần những tâm hồn rộng mở để đón Người và để đón nhận tất cả những ai được cứu chuộc bởi chính sự chết của Người.

Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã trở nên như mỗi chúng ta để rồi khi chúng ta nhìn Người với ánh mắt của đức tin thì chúng ta có thể tự nhận ra mình là con cái của Người và là anh chị em với mọi người. Qua Người, tình yêu Thiên Chúa được thể hiện, tình yêu nhân loại được phản chiếu. Có thể nói, Người là giếng cứu độ qua đó mỗi chúng ta thấy rõ con người và thiên chức của mình. Lạy Chúa, xin giải khát chúng con với nguồn suối ơn cứu độ của Ngài.

Lm.Giuse Nguyễn Chí Ái, AA

Nguồn: Sống Lời Chúa – Bayard Việt Na