Đức Thánh Cha gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh
Đức Thánh Cha gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh
Nhà thờ Chính toà “Đức Bà Congo”
Nhà thờ Chính toà “Đức Bà Congo” hay đơn giản là Nhà thờ Chính toà Kinshasa nằm trên Đại lộ Giải Phóng, trước đây gọi là Đại lộ 24/11. Nhà thờ có từ năm 1947 khi đất nước vẫn còn dưới sự cai trị của Bỉ. Trong thời Mobutu cầm quyền Nhà thờ được đổi tên thành “Đức Mẹ Lingwala” theo địa danh.
Nhà thờ bằng gạch được lấy cảm hứng từ nghệ thuật kiến trúc của những năm 30 thế kỷ trước. Nội thất được đặc trưng bởi sàn đất, một dàn hợp xướng rất đơn giản và một bức bích hoạ phía trên mô tả Chúa Kitô châu Phi. Bên trong có một nghĩa trang của các Giám mục đã cai quản cộng đoàn Kitô địa phương và bên ngoài có một hang đá Đức Trinh Nữ Maria.
Nhà thờ Chính toà là ngai toà của Đức Tổng Giám mục Kinshasa, được Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập vào năm 1959. Trước cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô, trong thời gian gần đây Nhà thờ đã được trùng tu.
Gặp gỡ
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được rất nhiều người đã chờ đợi từ lâu đón tiếp một cách nồng nhiệt. Sau đó ngài được Đức Hồng y Fridolin Ambongo, Tổng Giám mục của Kinshasa, cha sở của Nhà thờ Chính toà tháp tùng vào bên trong nhà thờ và đến bên mộ của các Giám mục cầu nguyện trong giây lát.
Diễn ra trong bầu khí cầu nguyện, cuộc gặp gỡ được bắt đầu bằng lời chào mừng của Đức Hồng y. Sau đó một linh mục, một nữ tu và một chủng sinh lần lượt trình bày chứng tá.
Tiếp đến là phần công bố Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 2,22-40) thuật lại biến cố Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào Đền thánh.
Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha
Trong bài huấn dụ sau đó, trước hết Đức Thánh Cha đề cập đến lễ Đức Mẹ dâng Chúa trong đền thánh, ngày cầu nguyện cách đặc biệt cho đời sống thánh hiến. Đức Thánh Cha nói: “Như Simeon, tất cả chúng ta đều mong chờ ánh sáng Chúa để soi sáng bóng tối cuộc đời chúng ta. Hơn nữa, tất cả chúng ta đều ước ao sống kinh nghiệm mà ông Simêon đã có trong Đền thánh Giêrusalem: ôm Chúa Giêsu trong vòng tay. Khi ôm Người trong vòng tay, chúng ta có thể chiêm ngắm và ôm Người vào lòng. Khi chúng ta đặt Chúa Giêsu làm trung tâm cuộc đời, thì cách nhìn của chúng ta thay đổi, và mặc dù có vất vả khó khăn, chúng ta cảm thấy được bao bọc bởi ánh sáng Người, được Thần Khí Người an ủi, được lời Người khích lệ và được tình yêu Người nâng đỡ.”
Niềm vui phục vụ Tin Mừng
Trong khi nhìn nhận những khó khăn, những thách đố mà các linh mục và tu sĩ ở Congo phải đối diện, Đức Thánh Cha cho rằng đời sống thánh hiến cũng có niềm vui lớn lao trong khi phục vụ Tin Mừng, và có rất nhiều ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến. Đây là nguồn ân sủng dồi dào của Thiên Chúa, hoạt động trong sự yếu đuối (2 Cor 12, 9), và làm cho các linh mục, tu sĩ cùng với giáo dân, có khả năng khơi dậy niềm hy vọng trong những hoàn cảnh thường đau khổ của dân tộc.
Tiếp đến Đức Thánh Cha gợi ý suy tư theo Lời Chúa nói qua Ngôn sứ Isaia: “Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn.” (43,19). Ngài diễn giải rằng Thiên Chúa mở những con đường trong sa mạc của các linh mục và những người thánh hiến, những người được kêu gọi trở thành dấu chỉ của lời hứa này và thực hiện lời hứa đó trong lịch sử Dân thánh Chúa.
Qua miệng ngôn sứ, Chúa nói với dân Người vào thời điểm bi thảm, trong lúc dân Israel bị lưu đày sang Babylon và bị biến thành nô lệ. Động lòng trắc ẩn, Chúa tìm cách an ủi dân: “Đừng sợ, vì ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta. Người có băng qua nước, Ta sẽ ở cùng ngươi, ngươi có vượt qua sông, cũng không bị nước cuốn; ngươi có đi trong lửa, cũng chẳng hề hấn gì, ngọn lửa không thiêu rụi ngươi đâu.” (43,1-2). Như thế, Chúa tỏ mình ra là Thiên Chúa của lòng trắc ẩn, và bảo đảm với chúng ta rằng Người sẽ không bao giờ để chúng ta một mình, luôn ở bên chúng ta, là nơi nương tựa, là sức mạnh trong những lúc khó khăn.
Được mời gọi an ủi dân Chúa
Đức Thánh Cha nói rằng qua các linh mục và phó tế, các tu sĩ nam nữ, các chủng sinh Chúa cũng muốn xức dầu cho dân Người hôm nay bằng dầu an ủi và hy vọng. Linh mục và tu sĩ được mời gọi để lặp lại lời hứa này của Thiên Chúa, để nhắc nhở người khác rằng Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta và chúng ta thuộc về Người, đồng thời để khuyến khích và đồng hành với hành trình đức tin của cộng đoàn hướng về Đấng luôn đồng hành với chúng ta. Thiên Chúa không để nước nhấn chìm chúng ta, Lửa cũng không thiêu đốt chúng ta. Chúng ta hãy nhận ra rằng chúng ta đã được mời gọi để loan báo sứ điệp này giữa những đau khổ của con người. Đó là ý nghĩa của việc trở thành tôi tớ của dân: các linh mục, nữ tu và nhà truyền giáo, những người đã cảm nghiệm niềm vui của cuộc gặp gỡ giải thoát với Chúa Giêsu và giờ đây trao ban niềm vui đó cho người khác.
Đời sống linh mục và đời sống thánh hiến sẽ trở nên khô khan nếu chúng ta bắt đầu nghĩ rằng người dân ở đó để phục vụ chúng ta, thay vì chúng ta phục vụ họ. Mục tiêu của chúng ta không phải là một nghề nghiệp, một địa vị xã hội, hay một phương tiện chu cấp cho gia đình chúng ta ở quê nhà, nhưng là sứ vụ trở thành dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô, tình yêu nhưng không, sự hoà giải và tha thứ của Người, và mối quan tâm đầy trắc ẩn của Người đối với nhu cầu của người nghèo. Chúng ta được mời gọi trao ban chính mình cho anh chị em chúng ta, và mang họ đến với Chúa Giêsu, Đấng duy nhất chữa lành vết thương của mọi tâm hồn.
Nếu chúng ta cảm nghiệm ơn gọi của mình theo cách này, chúng ta sẽ luôn có những thử thách phải đối diện và những cám dỗ phải vượt qua. Đức Thánh Cha nói đến ba điều: sự tầm thường về thiêng liêng, sự thoải mái thế gian và sự hời hợt.
Vượt qua sự tầm thường về tinh thần
Trước hết, chúng ta cần vượt qua sự tầm thường về thiêng liêng. Ngài nói: “Lễ Đức Mẹ dâng Chúa, mà Kitô giáo Đông phương gọi là “lễ gặp gỡ”, nhắc nhở chúng ta rằng ưu tiên trong cuộc sống của chúng ta phải là cuộc gặp gỡ với Chúa, đặc biệt trong đời sống cầu nguyện cá nhân, bởi vì mối tương quan của chúng ta với Người là nền tảng của tất cả mọi sự chúng ta làm. Chúng ta đừng quên rằng bí quyết của mọi sự là cầu nguyện, vì thừa tác vụ và hoạt động tông đồ trước hết không phải là công việc của chúng ta và không chỉ phụ thuộc vào các phương tiện của con người.”
Để trung thành với cầu nguyện giữa những mệt mỏi của hoạt động tông đồ, Đức Thánh Cha khuyên phải giữ nhịp cầu nguyện phụng vụ đánh dấu một ngày, từ Thánh lễ đến các giờ kinh phụng vụ và không quên xưng tội. Bởi vì linh mục và tu sĩ luôn cần được tha thứ, để sau đó ban tặng lòng thương xót cho người khác.
Cũng liên quan đến đời sống cầu nguyện, Đức Thánh Cha đưa ra lời khuyên thứ hai: không giới hạn trong những lời cầu nguyện thuộc lòng, nhưng mỗi ngày cần dành giờ cho cầu nguyện sốt sắng, để luôn “tâm đầu ý hợp” với Chúa. Dành nhiều giờ để thờ lạy, suy niệm Lời Chúa, hoặc lần hạt Mân Côi, một cuộc gặp gỡ thân tình với Đấng chúng ta yêu mến trên hết mọi sự. Ngoài ra, ngay cả khi đang hoạt động, chúng ta cũng có thể cầu nguyện, đó là những “lời nguyện ngắn”, ngợi khen, tạ ơn và khẩn cầu, được lặp đi lại với Chúa mọi lúc mọi nơi. Cầu nguyện giúp chúng ta không còn tập trung vào chính mình, nhưng mở lòng ra với Chúa, và giúp chúng ta đứng vững trên đôi chân vì cầu nguyện đặt chúng ta trong tay Người. Cầu nguyện tạo nơi chúng ta không gian để có thể cảm nghiệm được sự gần gũi của Thiên Chúa, để lời của Người trở nên quen thuộc với chúng ta và qua chúng ta, đến với tất cả những người chúng ta gặp gỡ. Không cầu nguyện, chúng ta sẽ không tiến xa được.
Vượt qua cám dỗ tiện nghi thế tục
Về thách đố thứ hai, vượt qua cám dỗ tiện nghi thế tục, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng, đó là một lối sống dễ dãi, tìm kiếm tiện nghi cho riêng mình, bị lôi kéo, không nhiệt tình. Theo cách này, linh mục và tu sĩ đánh mất trọng tâm sứ vụ. Thường trong những hoàn cảnh nghèo khó và đau khổ, có nguy cơ lớn về tính thế tục: lợi dụng vai trò của mình để thỏa mãn những nhu cầu và tiện nghi.
Đức Thánh Cha bày tỏ: “Thật đáng buồn khi chúng ta thu mình lại và trở thành những quan chức tinh thần lạnh lùng. Thay vì phục vụ Tin Mừng, chúng ta lại quan tâm đến việc quản lý tài chính và theo đuổi một số công việc kinh doanh đem lại lợi ích cho chúng ta. Đây là một điều tai tiếng khi nó xảy ra trong đời sống của một linh mục hay tu sĩ, vì lẽ ra linh mục và tu sĩ phải là những mẫu mực về sự điều độ và tự do nội tâm. Ngược lại, thật đẹp nếu chúng ta giữ được sự trong sáng trong ý nghĩ và không thỏa hiệp với tiền bạc, vui vẻ đón nhận sự khó nghèo Tin Mừng và làm việc cùng với người nghèo! Và thật đẹp biết bao khi được toả sáng trong đời sống độc thân như một dấu hiệu của sự sẵn sàng hoàn toàn cho vương quốc Thiên Chúa! Trái lại đừng để chính những tật xấu mà chúng ta muốn nhổ rễ nơi người khác và nơi xã hội, cuối cùng lại bén rễ trong chúng ta. Xin vui lòng, chúng ta hãy cảnh giác với những tiện nghi trần tục.”
Vượt qua cám dỗ của sự hời hợt
Đức Thánh Cha nói đến thách đố thứ ba vượt qua cám dỗ của sự hời hợt: Dân Chúa đang chờ đợi để được nghe và tìm thấy niềm an ủi nơi Lời Chúa. Do đó, họ cần các linh mục và tu sĩ được giáo dục, đào tạo tốt và say mê Tin Mừng. Một ân ban đã được đặt vào tay chúng ta, và về phần chúng ta, sẽ là sự tự phụ khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể sống sứ vụ mà Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta, không cần phải tự rèn luyện bản thân mỗi ngày và không cần phải được đào tạo thần học và thiêng liêng đầy đủ. Dân chúng không cần những “thánh chức”, có học vị nhưng lại tách mình khỏi người khác. Chắc chắn, chúng ta buộc phải đi vào trung tâm của mầu nhiệm Kitô giáo, đào sâu giáo huấn của Giáo hội, nghiên cứu và suy niệm lời Chúa. Tuy nhiên, đồng thời, chúng ta cũng phải luôn mở ra với những vấn đề của thời đại chúng ta và những vấn đề ngày càng phức tạp của thời đại chúng ta, để hiểu cuộc sống và nhu cầu của mọi người, đồng thời nhận ra cách tốt nhất để nắm lấy tay và đồng hành với họ. Theo đó, việc đào tạo hàng giáo sĩ không phải là tuỳ chọn. Tôi nói điều này với các chủng sinh, nhưng nó áp dụng cho tất cả mọi người. Việc huấn luyện phải được tiếp tục suốt đời.
Chúng ta phải đối diện với những thử thách này nếu chúng ta muốn phục vụ mọi người với tư cách là nhân chứng cho tình yêu Thiên Chúa, vì việc phục vụ chỉ có hiệu quả nếu nó đến từ chứng tá. Sau khi công bố những lời an ủi, Chúa nói qua Ngôn sứ Isaia: “Ai trong họ đã cho hay những điều đó, đã cho chúng ta nghe những chuyện ngày xưa? Chính các ngươi là nhân chứng của ta” (43, 9,19). Nhân chứng. Để trở thành linh mục, phó tế và những người thánh hiến tốt, lời nói và ý muốn thôi chưa đủ: đời sống của anh chị em phải lên tiếng lớn hơn lời nói.
Kết thúc bài huấn dụ, Đức Thánh Cha cám ơn chứng tá của các linh mục, tu sĩ và giáo lý viên. Ngài khích lệ mọi người không nản lòng trước những khó khăn của sứ vụ, đồng thời khẳng định Giáo hội cần các chứng tá như vậy. Ngài nói: “Cầu chúc anh chị em luôn là những kênh an ủi của Chúa và những chứng nhân vui tươi của Tin Mừng, những ngôn sứ của hoà bình giữa những vòng xoáy bạo lực, những môn đệ của tình yêu, luôn sẵn sàng chăm sóc những vết thương của người nghèo và người đau khổ.”
Ngọc Yến
Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2023-02/duc-thanh-cha-gap-go-giam-muc-linh-muc-tu-si.html