23/12/2024

Vai trò Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương trong chính sách đồn điền thời vua Tự Đức

Vai trò Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương trong chính sách đồn điền thời vua Tự Đức

Rất nhiều chính sách cải cách đồn điền dưới thời vua Tự Đức được đại thần Nguyễn Tri Phương hoàn thiện khi ông làm Kinh lược sứ Nam kỳ, sau này đã có nhiều đóng góp to lớn cho công cuộc kháng chiến chống Pháp.

 

 

Khẳng định công lao to lớn của đại thần Nguyễn Tri Phương trong những chính sách đồn điền dưới triều vua Tự Đức, tác phẩm mới Xã hội Việt Nam thời Lê – Nguyễn của tác giả Lê Nguyễn (do Dtbooks và NXB Hồng Đức ấn hành) viết: “Phải đợi đến đầu thập niên 1850, khi đại thần Nguyễn Tri Phương được cử làm Kinh lược sứ Nam kỳ, chính sách đồn điền mới thực sự hoàn chỉnh. Tháng giêng năm 1854, căn cứ vào lời tâu của cụ Nguyễn, vua Tự Đức đã chấp thuận cho cụ thực hiện những cải cách trong chính sách đồn điền”.

Vai trò Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương trong chính sách đồn điền thời vua Tự Đức - ảnh 1
Vua Tự Đức  T.L

Theo đó, cụ Nguyễn Tri Phương có đề nghị triều đình khuyến khích những người có điền sản đứng ra chiêu mộ dân, lập đồn điền, tuân thủ những quy định chặt chẽ về mặt tổ chức. Cứ 50 người lập thành một đội, 10 đội thành một cơ. Ai mộ đủ 50 người được cử làm chánh đội trưởng suất đội (chánh thất phẩm), mộ 500 người (một cơ) được cử làm Phó Quản cơ (chánh lục phẩm) .

Ông còn yêu cầu có định lệ ban thưởng: người nào mộ 30 dân được miễn xâu thuế trọn đời, mộ 50 dân được ban hàm chánh cửu phẩm, mộ 100 dân được hàm chánh bát phẩm. Riêng các phạm nhân, cứ lập một đội 50 người có làng xã đứng ra bảo chứng thì được tha tội, giao cho hai tỉnh An Giang và Hà Tiên bố trí canh tác tại các đồn điền thuộc tỉnh. Khi đời sống tại các đồn điền đã ổn định, các đội sẽ biến thành ấp, các cơ biến thành tổng, Suất đội kiêm nhiệm Trưởng ấp, Phó quản cơ kiêm nhiệm Tổng trưởng.

Sách đã dẫn của nhà nghiên cứu Lê Nguyễn cho biết thêm: “Về phần chính quyền cấp phủ, huyện, để ngăn chặn tình trạng biếng nhác của họ, vua Tự Đức cũng đặt ra lệ thưởng phạt. Phủ huyện nào mộ được 30 dân đinh, canh tác 60 mẫu ruộng thì được hưởng hết; chỉ được 1/5 số đó thì không được hưởng, còn không mộ được ai sẽ bị nghiêm trị. Vì lẽ đó, chính sách đồn điền không phải lúc nào cũng được đồng tình hoàn toàn”.

Sự nỗ lực không biết mệt mỏi của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương

Với tấm lòng nhiệt huyết trước nhiệm vụ nặng nề được triều đình giao phó, đặt niềm tin cho Nguyễn Tri Phương, cứ ngỡ mọi việc xuôi chèo mát mái. Nhưng không, một số quan chức dưới quyền Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương vẫn có nhiều ý kiến bất đồng. Qua các tài liệu có được, nhà nghiên cứu Lê Nguyễn điểm mặt: “Tiêu biểu trong nhóm này phải kể đến Tổng đốc An Hà (An Giang – Hà Tiên) Cao Hữu Bằng, Tri phủ Nguyễn Cửu Trường, Bố chánh Định Tường Nguyễn Đình Tân, Án sát Định Tường Vương Sĩ Kiệt. Họ lập luận rằng có nhiều người lợi dụng chính sách đồn điền để chiếm canh thục điền (ruộng đã cày cấy thành điền rồi), người ứng mộ không có căn cước dễ trốn đi; cho phạm nhân mở mang hoang địa là giúp họ có cơ hội trốn tránh, tiếp tục tái phạm”.

Vai trò Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương trong chính sách đồn điền thời vua Tự Đức - ảnh 2
Danh tướng Nguyễn Tri Phương (phải) qua nét vẽ của người Pháp  T.L CỦA TRẦN ĐÌNH BA

Tuy nhiên “trong cái khó ló cái khôn”. Vua Tự Đức đã bác bỏ ngay những lập luận đó, vì thực tế cho thấy chính sách đồn điền đã đạt được thành công theo đúng kế hoạch của triều đình. Từ năm 1854, toàn bộ 6 tỉnh Nam kỳ đã tổ chức được 21 cơ, 210 đội, với tổng số dân đồn điền là 10.500 người, phần lớn đã an cư lạc nghiệp. Kết quả đó có được nhờ những nỗ lực không mệt mỏi của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương. Trong số những người đứng ra mộ dân, có Trương Định, con Lãnh binh Trương Cầm, đã lập nên cơ đồn điền Gia Thuận, thuộc tỉnh Gia Định.

“Thông thường, những người đứng ra tập hợp lưu dân phải dùng phần điền sản sẵn có của mình để phân phát cho dân nghèo mộ được trong thời gian đầu. Lưu dân các nơi, kể cả thành phần du thủ du thực và phạm nhân biết hối cải được tạo điều kiện thuận lợi nhất để an cư lập nghiệp, trật tự trị an được đảm bảo trên những địa bàn rộng lớn. Điều đặc biệt hơn nữa, khi thực dân Pháp bắt đầu thực hiện dã tâm xâm lược nước ta, các đồn điền đã có nhiều đóng góp vào công cuộc kháng chiến chống Pháp. Tiêu biểu cho trường hợp này là cơ đồn điền Gia Thuận dưới quyền Phó quản cơ Trương Định và nhiều cơ khác đã biến thành những lực lượng kháng chiến có quy củ, trong một thời gian dài đã gây cho giặc nhiều tổn thất nặng nề”, sách Xã hội Việt Nam thời Lê – Nguyễn viết.

Vai trò Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương trong chính sách đồn điền thời vua Tự Đức - ảnh 3
Tranh vẽ lính Pháp đánh thành Hà Nội và tướng Nguyễn Tri Phương tử thủ  T.L

Tuy nhiên, vì sớm nhận ra tác dụng bất lợi của tổ chức đồn điền, sau này khi chiếm được Sài Gòn, thì ngày 22.8.1861, chính quyền Pháp đã ra văn bản cho giải tán các đồn điền tại ba tỉnh miền Đông Nam kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường.

Để rồi 6 năm sau đó, ngày 20.9.1867, đúng 3 tháng sau khi chiếm nốt các tỉnh miền Tây thì Thống đốc Pháp De La Grandière cũng đã cho ban hành quyết định số 149 bãi bỏ tổ chức đồn điền trên toàn cõi Nam kỳ. Như vậy, toàn bộ mọi công sức gầy dựng của đại thần Nguyễn Tri Phương và các cộng sự trước đây đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử. “Khi đó, một phần dân đồn điền được đưa về các xã thôn, sung vào các ban hương chức hội tề, một phần trở thành lính do Pháp trực tiếp chỉ huy, một phần khác tham gia vào các lực lượng kháng chiến chống Pháp. Sang nửa đầu thế kỷ 20, các đồn điền tái hiện, nhưng dưới hình thức hoàn toàn khác, chủ yếu là đồn điền cao su, ở đó chủ nhân là người da trắng và không ít đồng bào miền Bắc đã vào Nam mưu sinh bằng nghề phu cạo mũ, tiếp tục cuộc sống lầm than của người dân thuộc địa”, nhà nghiên cứu Lê Nguyễn cho biết thêm.

LÊ CÔNG SƠN

TNO