Bao lâu sau dùng thuốc Molnupiravir mới nên thụ thai?
Bao lâu sau dùng thuốc Molnupiravir mới nên thụ thai?
Molnupiravir bước đầu được đánh giá dung nạp tốt, giảm tải lượng vi rút với các ca mắc Covid-19 thể nhẹ. Tuy nhiên, cần kiểm soát các yếu tố nguy cơ do thuốc gây nên.
Từ cuối tháng 8.2021, Bộ Y tế đã triển khai chương trình thí điểm điều trị sử dụng thuốc kháng vi rút Molnupiravir có kiểm soát cho các trường hợp mắc Covid-19 thể nhẹ, thể không triệu chứng điều trị tại các cơ sở y tế, khu cách ly, khu thu dung điều trị và tại nhà. TP.HCM là nơi triển khai đầu tiên, đến nay chương trình đã mở rộng đến 51 tỉnh thành với hơn 300.000 liều đã được Bộ Y tế phân bổ.
Không được sử dụng để dự phòng
Chương trình triển khai sau khi có kết quả đánh giá giữa kỳ của các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng quy mô nhỏ và vừa tiến hành tại Bệnh viện Thống Nhất (TP.HCM), Bệnh viện Phổi T.Ư (Hà Nội) cho thấy tính an toàn và hiệu quả của thuốc.
Chỉ sử dụng thuốc Molnupiravir khi có đơn của bác sĩ theo đúng chỉ định, cảnh báo DUY TÍNH |
Kết quả đánh giá giữa kỳ (đến tháng 11.2021) sau khi triển khai tại 22 tỉnh thành cho thấy, Molnupiravir an toàn, dung nạp tốt, hiệu quả rõ rệt về giảm tải lượng vi rút, giảm lây lan, giảm chuyển nặng, rút ngắn thời gian điều trị; 72,1 – 99,1% F0 có kết quả xét nghiệm RT-PCR âm tính sau 5 ngày dùng thuốc, hoặc dương tính với tải lượng vi rút thấp; gần 100% âm tính sau 14 ngày, hoặc dương tính với tải lượng vi rút thấp.
Theo Bộ Y tế, Molnupiravir được sử dụng để điều trị Covid-19 mức độ nhẹ đến trung bình ở người trưởng thành dương tính với SARS-CoV-2 và có ít nhất một yếu tố nguy cơ làm bệnh tiến triển nặng (người có bệnh nền, suy giảm miễn dịch…) và hiện chỉ có thuốc do Bộ Y tế cấp cho F0 đủ điều kiện. Đến ngày 13.1, thuốc này chưa được phép sản xuất thương mại tại Việt Nam.
Khi sử dụng, Molnupiravir có chỉ định trong giới hạn: dùng trên bệnh nhân có thời gian khởi phát triệu chứng dưới 5 ngày; không được sử dụng quá 5 ngày liên tiếp; không được sử dụng để dự phòng sau hay trước phơi nhiễm để phòng Covid-19.
Ảnh hưởng phát triển xương và sụn
Theo Bộ Y tế, hiện Molnupiravir đang được xem xét cấp phép để sản xuất tại Việt Nam, dự kiến có 3 sản phẩm đầu tiên được cấp phép. Ngày 8.1, Hội đồng Tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc của Bộ Y tế đã có cuộc họp và chính thức có ý kiến đối với tác dụng phụ và các khuyến cáo quan trọng đối với việc sử dụng thuốc Molnupiravir.
Theo đó, thuốc Molnupiravir đã được cấp phép lưu hành có điều kiện tại Anh (ngày 4.11.2021), phê duyệt sử dụng khẩn cấp tại Mỹ (ngày 23.12.2021), tại Nhật Bản (ngày 25.12.2021) và phê duyệt sử dụng tại một số quốc gia khác để điều trị Covid-19.
Căn cứ các chỉ định, các khuyến cáo của thuốc Molnupiravir được phê duyệt bởi Cơ quan Quản lý dược và thực phẩm của Mỹ (FDA), Cơ quan Quản lý dược và sản phẩm y tế của Anh (MHRA), các nội dung quan trọng cần đặc biệt lưu ý khi sử dụng thuốc Molnupiravir để điều trị Covid-19 là: Dựa trên khả năng xảy ra các phản ứng có hại cho trẻ sơ sinh từ Molnupiravir, không khuyến cáo cho con bú trong thời gian điều trị và trong 4 ngày sau liều cuối cùng. Molnupiravir không được phép sử dụng cho bệnh nhân dưới 18 tuổi vì có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của xương và sụn.
Ảnh hưởng tinh trùng
Đáng lưu ý, Molnupiravir không được khuyến cáo sử dụng trong thời kỳ mang thai. Phụ nữ có khả năng mang thai nên sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả trong thời gian điều trị và trong 4 ngày sau liều Molnupiravir cuối cùng.
Với nam giới, Molnupiravir có thể ảnh hưởng đến tinh trùng, mặc dù rủi ro được coi là thấp. Vì vậy, nam giới hoạt động tình dục với phụ nữ có khả năng sinh đẻ nên sử dụng một phương pháp tránh thai tin cậy trong thời gian điều trị và ít nhất 3 tháng sau liều Molnupiravir cuối cùng.
Để đảm bảo an toàn, hiệu quả, chỉ sử dụng thuốc Molnupiravir khi có đơn của bác sĩ theo đúng chỉ định, các giới hạn sử dụng và các cảnh báo, thận trọng của thuốc.
Không tự ý mua, không sử dụng thuốc Molnupiravir trôi nổi, không rõ nguồn gốc, xuất xứ trên thị trường. Trong quá trình sử dụng thuốc, nếu gặp phải bất kỳ phản ứng có hại nào, cần thông báo ngay cho bác sĩ hoặc dược sĩ để được tư vấn và xử trí kịp thời.
(Nguồn: Bộ Y tế)