23/12/2024

Bài 16: Mặc đẹp cho đời

Mặc là một trong những nhu cầu thiết thân của con người trong xã hội. Quần áo và những trang phục như mũ nón, ví cặp, giày dép… không phải chỉ che thân và bảo vệ sự sống, nhưng còn nói lên tính cách và phẩm giá cao quý của người dùng chúng.

 

  Mặc đẹp cho đời

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

Lời mở

Mặc là một trong những nhu cầu thiết thân của con người trong xã hội. Quần áo và những trang phục như mũ nón, ví cặp, giày dép… không phải chỉ che thân và bảo vệ sự sống, nhưng còn nói lên tính cách và phẩm giá cao quý của người dùng chúng. Nhiều người săn tìm những bộ quần áo của các công ty thời trang nổi tiếng, trong khi nhiều người khác lại chỉ mặc những chiếc quần jeans rách nhiều chỗ cho có vẻ phóng khoáng tự do. Một số bạn trẻ chỉ thích mặc những quần áo ngắn ngủn, mỏng manh, để khoe những đường cong, cơ bắp trên thân thể. Vậy ta sẽ mặc gì và mặc như thế nào có lẽ vẫn là câu hỏi được nhiều bạn đặt ra hằng ngày mỗi khi phải thay quần áo để đi học, đi làm hay sinh hoạt trong xã hội.

1. Cái mặc trong dòng lịch sử nhân loại

Nếu người ta sống một mình trên hoang đảo như Robinson Crusoe[1] hay trong phòng kín nào đó, có lẽ chẳng cần mặc quần áo, dù rằng quần áo vẫn cần để bảo vệ cơ thể như giữ ấm, chống ướt, chống lạnh… Nhưng khi tiếp xúc với người khác trong cộng đồng gồm nhiều loại người khác nhau như nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, sang hèn, trí thức hay bình dân… chúng ta cần phải ăn mặc cho phù hợp để nói lên tư cách của mình và tôn trọng người khác. Thí dụ: ta không thể chạy xe máy ngoài đường với chiếc quần ngắn, mình trần như một vài người thiếu học. Ta cũng không thể tiếp khách lạ với bộ đồ ngủ mặc trong nhà để nói rằng mình phóng khoáng, tự do.

Kể từ thời tiền sử, dù còn ăn lông ở lỗ, chỉ biết mặc những manh áo, tấm khố làm bằng vỏ cây, da thú, nhưng con người đã biết trang điểm cho mình xinh đẹp bằng những vệt màu bằng đất sét[2], đeo những vỏ ốc, gắn những lông chim sặc sỡ. Người càng có địa vị cao trọng trong bộ lạc như tù trưởng, thầy pháp, già làng, thì quần áo càng có thêm những điểm khác biệt. Khi những bộ lạc kết thành những cộng đồng lớn trong thời kỳ bộ tộc, trang phục của những người có địa vị còn được ấn định rõ ràng hơn và khác biệt với thường dân.

Vào thời kỳ hình thành các dân tộc, trang phục dần dần mang nét đặc sắc của nền văn hoá. Mỗi dân tộc có bộ trang phục truyền thống để mặc trong các lễ hội hay các ngày trọng đại của đất nước, như bộ Sari của Ấn Độ, Kimono của Nhật Bản, Hanbok của Hàn Quốc, Kebaya của Indonesia, Sabai của Thái Lan, Kilt của Scotland, Gho của Bhutan, Áo dài của Việt Nam.

 

 

 

Ngoài những bộ quần áo đơn giản mà người dân thường mặc trong những ngày làm việc, những bộ trang phục đẹp đẽ chỉ tìm thấy ở chốn cung đình dành cho vua chúa, hoàng tộc, cho quan lại các cấp, các ngành hay những người giàu sang quyền quý. Chỉ những người này mới có đủ điều kiện để mặc những bộ quần áo may bằng những chất liệu đặc biệt như gấm vóc, lụa là, thêu bằng chỉ vàng, đính thêm ngọc quý.

Từ đầu thế kỷ IV, do ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo, nhất là Kitô giáo, mọi người trong đế quốc Rôma đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa nên quần áo sang trọng không còn là độc quyền của giới quý tộc. Ai cũng phải ăn mặc nghiêm chỉnh để ra mắt Thiên Chúa, nhất là khi tham dự những nghi lễ phụng tự. Khi các cuộc cách mạng lật đổ chế độ quân chủ độc tài bùng nổ ở nhiều nước châu Âu, khởi đầu từ cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, việc mặc những trang phục đẹp dần dần phổ biến cho quảng đại quần chúng, nhất là trong giới tư bản giàu có.

Nhiều công ty thời trang nổi tiếng được thành lập từ thế kỷ XIX để đáp ứng nhu cầu mặc đẹp của con người và còn tồn tại tới ngày nay như Louis Vuitton (1854), Chanel, Prada, Versace, Gucci, Dior, Burberry, Hermès, Dolce-Galbana, Armani, Ferdi, Yves-Saint-Laurent, Givenchy, Bottega, Veneta… Từ thế kỷ XIX, khi đời sống cộng đồng ở đô thị phát triển, cách ăn mặc của con người cũng thay đổi: người ta không còn chỉ muốn ăn no mặc ấm, nhưng muốn ăn ngon mặc đẹp. Những bộ quần áo truyền thống cầu kỳ, phức tạp, nhiều chi tiết được thay bằng những bộ quần áo gọn gàng, đơn giản để tiện làm việc trong các công ty, nhà máy, xí nghiệp, nhất là khi ngành may mặc được công nghiệp hoá với những máy móc hiện đại. Quần áo may sẵn với những tiêu chuẩn rõ ràng, màu sắc hấp dẫn, vừa rẻ vừa đẹp, có thể đến tay mọi người. Sự phân cấp xã hội qua trang phục giữa những con người sang hèn, giàu nghèo, già trẻ cũng không còn gay gắt như trước vì ai cũng có thể mặc những bộ quần áo giống nhau. Nghề may cá nhân hầu như biến mất vì ít người mất công đem vải đi may do tiền công may mắc hơn tiền vải.

Khuynh hướng “ăn bờ, mặc bụi” bắt nguồn từ những người trẻ thuộc phong trào Hippy hay Hippie bắt nguồn từ Hoa Kỳ trong những năm 1960, sau đó lan rộng sang các nước khác trên thế giới. Nhiều bạn trẻ thời đó bất mãn với định ước xã hội đương thời, với tầng lớp trung lưu bị chi phối bởi chủ nghĩa tiêu dùng. Họ phản đối chiến tranh, đề cao tự do, tình yêu, hoà bình, lòng khoan dung, bác ái. Họ chủ trương từ bỏ xã hội công nghiệp, quay về với thiên nhiên. Họ thường mặc quần jeans[3], cố tình để rách nát hoặc chắp vá vì muốn chứng tỏ mình chống lại những hình thức, luật lệ rườm rà của xã hội, cổ vũ cho một đời sống tự do, phóng khoáng.

Những quần áo cực ngắn bắt nguồn từ thời xa xưa với những nghệ sĩ, vận động viên thời đế quốc Hy Lạp, La Mã. Họ mặc như thế vừa để phô bày những nét đẹp thân thể khoẻ mạnh vừa để dễ dàng chơi các môn thể thao, trình diễn các tiết mục nghệ thuật như múa, xiếc… Kitô giáo với khuynh hướng chế ngự những đòi hỏi của dục vọng, kết hợp với chủ nghĩa khắc kỷ và thuyết Nhị Nguyên của các triết gia Hy Lạp, La Mã, đã lên án những loại quần áo “khoe thân” suốt 19 thế kỷ. Vào đầu thế kỷ 20, khi bác sĩ phân tâm học người Áo, Sigmund Freud (1856-1939), viết “Ba tiểu luận về tình dục” xuất bản năm 1905, đề cao những ham muốn của thể xác để giải toả những ẩn ức bản năng, thì khuynh hướng mặc những quần áo khoe thân bắt đầu nở rộ.

Những loại quần áo cực ngắn, bó sát thân mình, dùng những loại vật liệu trong suốt hay lẫn với màu da để khoe các nét đẹp trên thân thể, nhất là của phụ nữ được nhiều người trẻ ưa chuộng. Phong trào mặc những loại quần áo “mát mẻ” này còn được hỗ trợ bởi những phim ảnh, sách báo đề cao tình dục dành cho người lớn trên các phương tiện truyền thông xã hội. Chủ nghĩa Hiện Sinh, do triết gia Jean Paul Sartre (1905-1980), khởi xướng sau Thế chiến II, cũng đóng góp nhiều cho phong trào ăn mặc hở hang này khi đề cao tự do chọn lựa để hưởng thụ đời sống có vẻ như phi lý của con người. Nhiều bãi biển khoả thân được lập nên để đáp ứng yêu cầu của những người theo chủ nghĩa Tự Nhiên.

2. Người Việt mặc như thế nào?

Về cái mặc, dân tộc Việt chúng ta cũng tiến từ giai đoạn trần trụi thời các vua Hùng dựng nước với yếm, váy ngắn cho đàn bà; áo giao lĩnh, trực lĩnh, viên lĩnh và khố vải cho đàn ông[4], tiến đến giai đoạn có quần áo tươm tất hơn khi bắt đầu nền quân chủ độc lập của đất nước vào năm 938. Trong thời kỳ hơn 1.000 năm bị người Trung Quốc đô hộ (111 TCN – 937), những người thân chính quyền và giàu có mặc giống như người Trung Quốc, trong khi đại đa số quần chúng mặc theo quần áo của người Việt cổ. Điều này nói lên tinh thần ái quốc chống lại cuộc xâm lăng về văn hoá của bọn ngoại xâm vì trong khi phụ nữ Trung Quốc mặc quần với hai ống riêng biệt, thì phụ nữ Việt Nam mặc váy. Vì thế mới có câu ca dao:

Cái thúng mà thủng hai đầu
Bên Tây thì có bên Tàu thì không.

Quần chúng bình dân mặc quần áo đơn giản cho dễ làm việc, may bằng vải bông hay đũi[5] là loại tơ tằm dệt thô, có nhiều đường nối. Nhiều người giàu hoặc quan lại mới có điều kiện may quần áo bằng lụa là, gấm vóc. Màu sắc thường là màu trắng, đen, xanh đậm, nâu. Còn những màu rực rỡ khác đều dành cho người quyền quý, giàu sang. Đặc biệt màu vàng với những đường thêu các linh vật như long, ly, quy, phụng chỉ dành cho vua chúa, quan lại. Người dân nếu may mặc màu vàng và các linh vật có thể bị khép vào tội khi quân, có ý đồ phản loạn.

Áo dài là trang phục cách tân của áo ngũ thân của người Việt Nam, mặc cùng với quần dài, dành cho cả nam lẫn nữ, nhưng thường dành cho nữ nhiều hơn. Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1744) được coi là người có công sáng chế chiếc áo dài và định hình chiếc áo dài Việt Nam như ngày nay[6]. Áo có hai vạt, mỗi vạt có hai thân nối vị chi thành bốn tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu. Vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt nhờ cổ áo có bâu đệm và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho ngũ thường, ngũ hành theo Nho giáo và triết học Đông Phương.

 Cho đến thế kỷ 17, truyền thống mặc váy vẫn còn tồn tại ở Việt Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính, đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665, với sắc lệnh nhắc nhở: “Áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế…”. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới có câu ca dao kêu trách như sau:

Tháng Tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng!

Chiếc áo dài ngày nay được hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường (dịch sang tiếng Pháp: Le Mur) giới thiệu đầu tiên trên báo Phong Hoá, số 90, ra ngày 23/3/1934. Áo chia hai tà trước sau từ dưới eo khoảng 8cm. Thay vì yếm làm vùng ngực của phụ nữ không đẹp và nổi, thì hoạ sĩ đã nhờ chủ hiệu Cư Chung sản xuất thêm nịt vú để nâng ngực cho người mặc. Năm 1935, những chiếc áo dài Le Mur được xuất xưởng, tạo sự duyên dáng sang trọng cho phụ nữ được cả xã hội đón nhận. Từ đó đến nay, chiếc áo dài đã được cách tân (với tay rap Raglan năm 1960 do nhà may Dung ở Đakao, Sài Gòn) và thay đổi với nhiều kiểu dáng và chất liệu nên trở thành một trang phục riêng biệt của nữ giới Việt Nam được nhiều nước trên thế giới biết đến[7]. Chiếc áo dài Việt Nam cũng đã gợi ý cho biết bao nhạc sĩ, thi sĩ viết thành những ca khúc, vần thơ tuyệt vời:

Chiếc áo quê hương dáng thướt tha
Non sông gấm vóc mở đôi tà
Tà bên Đông Hải lung linh sóng
Tà phía Trường Sơn rực rỡ hoa
Vạt rộng Nam Phần theo cánh gió
Vòng eo Trung bộ thắt lưng ngà
Nhịp tim Hà Nội nhô gò ngực
Hương lúa ba miền thơm thịt da.[8]

3. Mặc theo quan điểm truyền thống Công giáo

Người tín hữu Công giáo có quan điểm khác biệt về cái mặc và hướng nhiều về lĩnh vực đạo đức, tinh thần hơn là những quần áo, trang sức bằng vật chất bên ngoài.

Đức Giêsu nói: “Còn về áo mặc, anh em lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết, ngay cả vua Salomon, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng nay còn, mai đã quăng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần những thứ đó. Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,28-33).

Khởi đầu, người Công giáo giữ nguyên quan niệm truyền thống về y phục như Do Thái giáo đã diễn tả trong Thánh Kinh Cựu Ước. Từ nguyên thuỷ, những người đầu tiên trần truồng không y phục vì họ được ánh sáng của Thiên Chúa bao phủ (x. St 3). Chỉ sau khi phạm tội, cắt đứt sự hiệp thông với Thiên Chúa, họ mới cảm thấy xấu hổ trước mặt Thiên Chúa và trước mặt nhau, nên Thiên Chúa đã mặc cho họ những chiếc áo da (x. St 3,21). Y phục bảo vệ thân thể, chống lại những thay đổi của thời tiết, những nguy hiểm của môi trường như các côn trùng, mà còn chống lại những cái nhìn thèm khát, muốn lột trần con người, hạ thấp giá trị con người thành một đồ vật để thoả mãn dục tính. Vì thế, luật cấm nhìn thân thể trần truồng của cha mẹ (x. St 9.20-27), anh em (x. St 34; 2Sm 3), vợ chồng (x. Lv 18) để bảo vệ đời sống riêng tư của mỗi người.

Y phục còn phản ánh đời sống xã hội với những công việc khác nhau (x. 1Sm 25,48; Cn 31,10-31), trở thành quà tặng nói lên tình bằng hữu (x. 1Sm 18,3-4), trở thành ân phúc của Chúa để chia sẻ cho những ai nghèo túng, không để họ phải trần truồng, rách rưới (x. Ez 18,7; Is 58,7). Y phục được phân loại cho ngày làm việc bình thường và ngày lễ trọng đại kính Chúa (St 35, 2; Xh 19,10),  loại dành cho vua (x. 1V 22,30; 1Mcb 11,58), cho tư tế (x. Xh 28,2; Lv 16,4), cho ngôn sứ (1V 19,19).

Đời sống, lời rao giảng, nhất là mầu nhiệm chết đi-sống lại của Đức Giêsu Kitô đem lại ý nghĩa mới mẻ cho cái mặc của con người và của Kitô hữu. Thiên Chúa yêu thương toàn thể con người và vũ trụ nên đã sai Ngôi Lời, Con của Ngài, xuống thế làm người. Dù là Thiên Chúa vô cùng giàu có và cao sang, nhưng Người tự nguyện trở thành hài nhi, bọc tã nằm trong máng cỏ (Lc 2,7.12). Cuối đời, Đức Giêsu bị lột hết y phục (x. Mt 27,35; Ga 19,23), nằm chết nhục nhã trên thập giá như muốn đưa tất cả vào tình trạng nguyên thuỷ, khi con người được Thiên Chúa bao bọc bằng tình yêu và ánh sáng của Ngài. Đức Giêsu đã báo trước tình trạng này vài tuần trước đó, khi Người biến hình trên núi trong y phục huy hoàng trắng tinh như ánh sáng (x. Mt 17,2), cũng như khi Người hiện ra với Phaolô trên đường đi Damas (x. Cv 22,6-11). Đức Giêsu phục sinh, khi xuất hiện với những người chưa có đủ đức tin mạnh mẽ, sẽ chỉ mặc trên người y phục như một người bình thường (x. Ga 20,15; Lc 24,15t) để ta được tự do để nhận ra Người, thay vì bị ánh sáng và quyền uy Người khuất phục [9].

Người Kitô hữu không quan tâm đến y phục vật chất theo tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu, họ muốn lột bỏ con người cũ và mặc lấy người mới (x. Cl 3,10; Ep 4,24) để thật sự “sống công chính và thánh thiện, nhờ đức tin và phép rửa”. Họ phải ‘mặc lấy Đức Kitô’ (Gl 3,25) là con người mới (x. CĐ. Vat.II, GS, số 22) để từ nay trở thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người, thành con cái của Thiên Chúa. Mặc lấy Đức Kitô chính là mang một thứ y phục tinh thần mà Thánh Phaolô đã diễn tả rất rõ trong đoạn thư gửi tín hữu Côlôsê 3, 7-15: “Hãy cởi bỏ con người cũ là tất cả những gì tiêu cực như giận dữ, nóng nảy, độc ác, thoá mạ, ăn nói thô tục và mặc lấy con người mới là lòng thương cảm, nhân hậu, khiên nhu, hiền hoà, nhẫn nại, biết chịu dựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau, nhất là mặc lấy lòng bác ái là mối dây liên kết tuyệt hảo”.

Trong suốt 19 thế kỷ, người Công giáo it quan tâm đến y phục bên ngoài. Họ vẫn tuân theo lời dạy bảo của thánh Phaolô nhắc nhở phụ nữ cần phải che đầu khi họp nhau cầu nguyện chung với cộng đồng (x. 1Cr 11,5-14). Kitô hữu, dù nghèo khổ đến đâu, cũng cố sắm cho mình vài bộ quần áo tươm tất, nghiêm chỉnh khi dự thánh lễ và cầu nguyện trong thánh đường. Họ tuyệt đối không ăn mặc phóng túng, hở hang.

Ở Việt Nam, trong nhiều thế kỷ, người giáo dân, nam cũng như nữ, đều mặc áo dài khi đến nhà thờ. Chỉ từ sau năm 1960, tại một ít nhà thờ trong các thành phố lớn, người ta mới thấy những khách lạ, từ nơi khác đến, ăn mặc có vẻ khác biệt so với tín hữu địa phương. Từ 1975 đến nay, người ta mới thấy một số tín hữu trẻ bắt đầu mặc những quần áo ngắn ngủn, hở hang khi dự thánh lễ trong nhà thờ. Nhưng họ thường được nhắc nhở để ý thức về sự cao cả của Thiên Chúa và tôn trọng cộng đồng khi cầu nguyện chung với nhau.

Kể từ Công đồng Vaticanô II (1962-1965), người Công giáo vượt qua quan niệm Nhị Nguyên để nhận ra “con người là một với thể xác và tinh thần, và phải coi thể xác là tốt lành, đáng tôn trọng vì được Thiên Chúa tạo thành và sẽ được sống lại trong ngày sau hết” (x. CĐ. Vat.II, GS, số 14). Hơn nữa, Thiên Chúa là nguồn chân, thiện, mỹ.  nên tất cả mọi sự Ngài dựng nên đều rất tốt đẹp (St 1,31; x. Thư ĐGH Gioan Phaolô II gửi văn nghệ sĩ, 4/4/1999). Và cái đẹp là một trong ba thuộc tính cơ bản của hữu thể: đúng-tốt-đẹp, nên người tín hữu phải tôn trọng và biểu lộ cái đẹp trong thân xác cũng như qua quần áo, trang phục của mình. ĐGH Gioan Phaolô II nhắc bảo rằng: “đẹp là hình thức bên ngoài của cái tốt, cũng như cái tốt là điều kiện siêu hình của cái đẹp và cả hai cái tốt và đẹp đều phải nằm trong cái thật của hữu thể” (Thư gửi văn nghệ sĩ, số 3). Vì thế, bước sang thiên niên kỷ thứ III, người Công giáo có quan điểm cởi mở hơn về y phục và tất cả những gì liên quan tới thân thể con người vì muốn biểu lộ cái đẹp của Thiên Chúa qua cách sống, ăn mặc, trang điểm của mình.

 

4. Chúng ta sẽ mặc gì và mặc như thế nào?

Mỗi ngày trước khi đi làm, đi học hay gặp một người nào đó, chúng ta lưỡng lự, tần ngần không biết chọn bộ quần áo nào cho xứng hợp, trang điểm thế nào cho đúng đắn. Nếu chỗ ta làm, ta học đã có bộ đồng phục, có lẽ ta ít bận tâm, nhưng nếu không có, ta nên đặt ra cho mình một vài tiêu chuẩn trước khi chọn lựa:

Trang phục phải phù hợp với hoàn cảnh và cộng đồng xã hội. Ta không thể mặc bộ quần áo với màu sắc rực rỡ, tươi sáng để dự tang lễ của bất cứ ai, dù ta sống tự do phóng khoáng đến mấy, vì như thế là xúc phạm đến người đã khuất và cộng đồng trước nỗi mất mát và cái chết. Đến những nơi thờ tự ta cũng cần có những trang phục hết sức đúng đắn để tỏ lòng tôn kính thần linh và trân trọng niềm tin của người khác.

Trang phục phải phù hợp với đức hạnh và tư cách. Người xưa nhắc nhở rằng: “Y phục xứng kỳ đức”, nghĩa là ăn mặc phải tương xứng với đức hạnh và địa vị trong xã hội. Một người tử tế, có giáo dục sẽ biểu lộ đức hạnh của mình qua trang phục họ mang: từ bộ quần áo, đến giày dép, mũ nón, ví cặp… Dù có quyền cao chức trọng, họ vẫn ăn mặc giản dị, để nói lên tính cách khiêm nhường, không muốn nổi trội, gây sự chú ý đối với người khác. Trái ngược với một số người kém tài, thiếu đức, lại muốn đánh bóng mình và che mắt người khác bằng những trang phục hàng hiệu, vòng vàng, nhẫn kim cương quý giá. Đó là chúng ta chưa muốn nói đến tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu nhắc nhở ta phải “khiêm nhường” để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho anh chị em mình.

Trang phục phải đẹp và nâng cao phẩm giá con người. Tinh thần khiêm tốn, khó nghèo không ngăn cản ta tôn vinh cái đẹp và nhân phẩm. Vẻ đẹp thể hiện qua màu sắc, kiểu dáng của trang phục hài hoà với người mặc và cộng đồng. Ta có thể mặc những bộ quần áo theo nguyên tắc đồng bộ (toàn màu trắng hay đen), hay phối màu theo bánh xe màu sắc dựa theo màu cầu vòng do Isaac Newton tìm ra năm 1666. Ba cách phối màu sau đây: phối màu đơn sắc (thí dụ: hồng cánh sen, hồng nhạt và trắng) tạo cảm giác tinh tế; phối màu tương phản với hai sắc thái đối lập 1800 trên bánh xe (thí dụ: xanh biển và cam, hồng và xanh lá, vàng và tím) tạo nên sức hút mạnh mẽ; hoặc phối màu liền kề với ba tông màu (thí dụ: vàng, xanh lá mạ, xanh lá cây; hoặc tím, tím than, xanh dương) tạo nên sự tinh tế, trẻ trung, nhã nhặn. Chính việc chọn đúng màu sắc đã nói lên phần nào tài năng, tính cách và đức hạnh của người mặc.

Tuyệt đối không bao giờ dùng trang phục khoe thân. Nhiều bạn trẻ hay phụ nữ mặc những bộ quần áo bằng voan hay lụa quá mỏng để khoe những đường cong trong thân thể, dù có được một ít bạn bè hay người hâm mộ tán thưởng, vẫn bị dư luận quần chúng coi thường, thậm chí chê trách. Họ đã tự đánh giá thấp bản thân, biến mình thành một tượng đài hay vật dụng cho người khác ngắm nhìn để chiều theo những dục vọng của người xem, hơn là biểu lộ những nét đẹp trong sáng cao thượng của một con người toàn diện: vừa có thể xác vừa có tinh thần.

Tuy nhiên chúng ta tôn trọng tự do của tất cả những ai mặc loại trang phục đó. Chúng ta cũng không thể nhắm chặt đôi mắt trong cuộc tiếp xúc với con người, nhất là khi lái xe hay đi trên đường phố. Một bạn trẻ Công giáo chia sẻ kinh nghiệm này: chúng ta cứ việc nhìn thẳng vào các anh chị em đó và ca tụng Chúa đã ban cho họ một cặp chân dài, một vòng ngực đẹp, một chiếc eo thon và có thể cầu nguyện thêm cho họ để ăn mặc kín đáo hơn, tránh gây nguy hiểm cho người khác!

Lời kết

Vì thế, chúng ta “hãy mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá” (Cl 3,10). Chúng ta hãy “mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,25) vì Người là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, đã đưa tính vĩnh hằng, vô biên, tuyệt đối vào trong con người vô thường, tạm bợ, hữu hạn, nên mỗi hành động dù nhỏ bé nhất của ta như ăn, mặc hằng ngày đều có giá trị vô cùng, đều tạo nên công đức vì ta đóng góp vào cái đẹp vĩnh hằng của Thiên Chúa. Như thế, dù mặc một tấm áo bình thường  hay trang phục sang trọng, tất cả mọi người chúng ta đều không muốn dùng vật chất để làm nổi bật mình so với người khác vì chúng ta không còn “là Do Thái, hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28). Chúng ta không cần phải mặc sao cho thật đặc biệt để làm lu mờ người khác vì chúng ta đều là anh chị em của nhau, là con cái Cha Trên Trời:  ta sẽ hoà mình vào cộng đồng “để chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3,11).

Câu hỏi

1. Bạn thường chọn lựa quần áo như thế nào: chú ý đến màu sắc, kiểu dáng hay không quan tâm đến chúng?

2. Nhiều người tín hữu, nhất là các tu sĩ, linh mục, không quan tâm đến quần áo bên ngoài, nên mặc không đẹp và có vẻ luộm thuộm nữa, nhân danh tinh thần nghèo khó của Đức Kitô. Bạn nghĩ sao?

3. Bạn nghĩ phụ nữ Việt Nam có nên mặc chiếc áo dài truyền thống trong những dịp lễ đặc biệt không? Tại sao?

4. Bạn biết gì về cách phối màu cho quần áo bạn mặc hay chia sẻ cho bạn bè để họ ăn mặc đẹp hơn?

5. Khi thấy một phụ nữ mặc bộ quần áo quá ngắn hay quá mỏng để khoe thân, phản ứng của bạn như thế nào?


[1] Robinson Crusoe là tiểu thuyết của nhà văn Anh Daniel Defoe, tên tiếng Anh đầy đủ: The life and strange surprising adventures of Robinson Crusoe of York, Mariner, xuất bản năm 1719.

[2] x. A. Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, tr. 15.

[3] Miền Bắc gọi là “quần bò” vì dân chăn bò ở bang Texas, Hoa Kỳ thường mặc. Loại quần áo này may bằng vải dày do ông Levi Strauss (1829-1902 ), người Đức, di cư sang Hoa Kỳ năm 1847, phát minh để giúp dân đào vàng ở San Francisco, California,có loại quần áo đủ bền chắc trong công việc nặng nhọc của họ.

[4] X. Wikipedia, bài Trang phục Việt Nam, Internet.

[5] Thành phố Hồ Chí Minh còn giữ một địa danh là Chợ Đũi là khu vực ở góc đường Võ Văn Tần, q.3 và giáo xứ Công giáo Chợ Đũi ở đường Tôn Thất Tùng , q.1, Tp.HCM. Đây là khu vực buôn bán đũi cách đây khoảng 100 năm.

[6] X. Wikipedia, bài Áo Dài, Internet.

[7] X. Wikipedia, bài Áo Dài, Internet.

[8] X. Nhà thơ Đinh Vũ Ngọc, quê ở Quảng Nam, tên thật là Đinh Văn Bảo (1935-2014), bài thơ Chiếc áo dài Việt Nam, trong tập Thơ Đường Thi Cảm Dịch, NXB đà Nẵng, 2000.

[9] X. Điển ngữ thần học Thánh Kinh, Bản dịch của Giáo hoàng Học viện Piô X, cuốn 4, 1976, mục từ Yphục, tr 469-475.