Ăn để thăng hoa (có hình)
Ăn là hành động ta làm hằng ngày trong đời sống. Cha ông chúng ta thường dạy: “Ăn để sống” chứ không phải “sống để ăn”. Nhưng hầu như người ta ít khi tìm hiểu xem “sống là gì, sống như thế nào mới đáng ăn”, nên cũng không biết “ăn là gì” và “ăn như thế nào mới đáng sống”.
Ăn để chuyển hoá và thăng hoa
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Lời mở
Ăn là hành động ta làm hằng ngày trong đời sống. Cha ông chúng ta thường dạy: “Ăn để sống” chứ không phải “sống để ăn”. Nhưng hầu như người ta ít khi tìm hiểu xem “sống là gì, sống như thế nào mới đáng ăn”, nên cũng không biết “ăn là gì” và “ăn như thế nào mới đáng sống”. Thật ra, khi suy tư đôi chút về cuộc sống, ta sẽ thấy mỗi lần ăn uống là ta kết nối với muôn loài trong trời đất và hiệp thông với nhau trong sự sống và tình yêu. Vì thế, để phát huy nét văn hoá ẩm thực của người Công giáo Việt Nam, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu : ăn là gì, con người ăn như thế nào, người Việt ăn uống ra sao. Từ đó chúng ta sẽ thấy người Công giáo nên ăn và tổ chức bữa ăn trong gia đình như thế nào cho tốt đẹp.
1. Ăn là gì?
Xét về khía cạnh sinh học, ăn là hành động đưa lương thực vào hệ tiêu hoá để thu nhận, biến đổi, phân giải các thức ăn về mặt vật lý, hoá học, chiết xuất các chất dinh dưỡng có ích từ đồ ăn và bài tiết ra ngoài những thứ không cần thiết cho cơ thể[1].
Đây là một tiến trình phức tạp với nhiều công đoạn, từ việc nhai đồ ăn trong miệng để nước bọt chuyển hoá tinh bột thành đường nhờ các men tiêu hoá (enzyme) gọi là Amylase và Lysozym để diệt vi khuẩn. Trong dạ dày, thức ăn được đảo trộn với dịch vị có chứa các men tiêu hoá protein. Ruột non là phần dài nhất và quan trọng nhất của hệ tiêu hoá, dài khoảng 7m với bề mặt 290m2. Nhờ các men tiêu hoá của tuyến tuỵ và túi mật hỗ trợ, thức ăn được phân giải thành các chất dinh dưỡng đơn và được hấp thu vào dòng máu nhờ các nhung mao ở ruột non. Cuối đường tiêu hoá là ruột già, có nhiệm vụ xử lý các chất thải không tiêu hoá được, tạo thành phân để tống ra ngoài, qua hậu môn[2].
Khi hiểu được tiến trình tiêu hoá, chúng ta sẽ thấy việc tiêu tốn nhiều thời giờ, tiền bạc để tìm ăn những món ngon, vật lạ, những đặc sản trong nước hay ngoài nước nhằm thoả mãn cơn đói khát theo bản năng đều không xứng hợp với nền văn hoá sự sống. Dù có ăn nem công chả phượng, lưỡi chim sẻ, tay gấu hay cả thai nhi như ở Trung Quốc thì các loại đặc sản đó chỉ đánh lừa các giác quan mà thôi. Nuốt vào dạ dày rồi, chúng sẽ được tự động phân giải thành những chất đơn như Carbon, Hydro, Oxy, Nitơ, Calci, Kali, Sắt, Đồng, Chì, Kẽm… mà 4 chất đầu đã chiếm tới 96% trọng lượng cơ thể. Dù ăn thật nhiều chất dinh dưỡng nhưng cơ thể chỉ thu nhận và dự trữ những chất cần thiết cho sự sống và loại bỏ những chất dư thừa. Nếu cơ thể không thải được các chất thừa đó ra ngoài, sự sống sẽ bị tổn thương.
Điều hiểu biết này cũng nhắc nhở chúng ta phải ăn uống theo khoa học và đừng vội tin những lời đồn thổi, những “kinh nghiệm dân gian”: ăn con này, cây nọ để chữa một số bệnh tật nan y hiện đăng tải đầy trên mạng internet. Nhiều người đã chết hay bệnh trở nên nặng hơn vì những kiểu ăn uống liều lĩnh này.
2. Con người ăn gì và ăn như thế nào?
Những con người thời sơ khai (homo habilis) cách đây 2,4 triệu năm[3] chỉ biết ăn tươi nuốt sống những thú vật mình bắt được. Khi con người đứng thẳng (homo erectus) khám phá ra lửa cách đây khoảng 800.000 năm, do hoả hoạn tạo ra như cháy rừng, núi lửa, họ thấy thịt nướng ăn ngon hơn, lành hơn và giữ được lâu hơn. Họ biết dùng lửa để nướng thịt, sưởi ấm, thắp sáng và xua đuổi thú dữ. Thức ăn loài người lúc đó là những lá cây, quả rừng và thịt thú vật. Con người sống theo bản năng nên chỉ ăn để sống và dành hầu hết thời gian sống để tìm thức ăn. Cộng đồng xã hội khi đó là bộ lạc do một tù trưởng đứng đầu, tất cả bộ tộc cùng chia sẻ thức ăn và bữa ăn là dịp họp mặt chung của cộng đồng.
Con người hiện đại biết suy tư (homo sapiens), xuất hiện cách nay 40.000 năm, đã tự tạo ra lửa để chế biến đồ ăn và tìm ra ý nghĩa của việc ăn uống. Đời sống an lành và nhàn rỗi hơn khi con người thuần hoá được các thú vật thành gia súc (như heo, bò, trâu, gà…) để ổn định nguồn thịt và thuần dưỡng được các loại lúa gạo vào khoảng 3500 năm TCN, lúa mì hoang dại khoảng 3000 năm TCN, để ổn định nguồn tinh bột cho cơ thể. Con người có thêm thời gian để học hành, nghỉ ngơi, phát triển nghệ thuật và suy tư về những giá trị của tinh thần thay vì dành hết thời giờ làm việc kiếm ăn.
Nền văn minh Hy Lạp và La Mã ở Tây Phương và Trung Hoa ở Đông Phương đã đưa việc ăn tiến một bước dài. Xã hội lúc này đã phân hoá thành các dân tộc với nhiều giai cấp như vua chúa, quan quyền, tăng lữ, nhà buôn và dân chúng, nên đồ ăn cũng được phân loại cao thấp và ý nghĩa bữa ăn cũng khác nhau. Chỉ người dân đen là phải nai lưng làm việc để có của ăn nuôi sống thân mình và gia đình mình. Từ tình trạng bị bóc lột bởi các nước giàu mạnh và sống như những nô lệ luôn “ăn đói, mặc rách”, họ chỉ mơ ước được “ăn no, mặc ấm”. Chỉ giai cấp thượng lưu mới có quyền “ăn ngon, mặc đẹp”. Một ít người như Tần Thuỷ Hoàng (259 TCN – 210 TCN), người đã xây dựng Vạn Lý Trường Thành, thống nhất Trung Quốc (221 TCN) sau khi tiêu diệt 6 nước chư hầu, còn mơ ước tìm được “của ăn trường sinh bất tử” chứ không phải chỉ ăn được những củ nhân sâm hay hà thủ ô ngàn năm[4].
Các tôn giáo đã đem lại ý nghĩa cho việc ăn uống và thể hiện niềm mơ ước của con người: ăn để sống mãi mãi. Trong cuốn truyện Tây Du Ký, xuất bản vào những năm 1590 và được cho là của học giả Ngô Thừa Ân, nhiều loài yêu quái muốn ăn thịt nhà sư Huyền Trang (Đường Tam Tạng) vì chúng cho rằng thịt này mang lại cho mình sự trường sinh bất lão.
Con người không còn chỉ ăn uống cho mình, nhưng qua các tôn giáo thờ kính tổ tiên, họ còn làm các bữa cúng giỗ để tưởng nhớ người đã khuất. Con người cũng dành những lễ vật cao quý cho thần linh để cầu xin ơn thoát khỏi những tai hoạ thiên nhiên, đền bù tội lỗi và các ân huệ khác. Việc ăn uống từ đó mang lại sự nối kết giữa những con người sống với nhau và với thế giới của tinh thần để dẫn con người đến sự sống kỳ diệu, phi thường của thần linh.
Mỗi tôn giáo dạy cho tín hữu của mình nên ăn gì, kiêng gì và tại sao phải làm như vậy. Các triết gia cũng bắt đầu suy tư về đồ ăn cho thể xác và thức ăn cho tinh thần. Họ cho thể xác đối nghịch với tinh thần, nên chủ trương sống nghiêm khắc với chính bản thân (phái Khắc Kỷ), ăn uống đạm bạc, không chiều theo thú vui và dục vọng để thể xác càng nhẹ nhàng thì tinh thần càng thanh thoát. Người theo đạo Phật “cấm sát sinh” vì tin rằng mỗi sinh vật có thể là ông bà, cha mẹ, bạn hữu của mình đầu thai ở kiếp này nên chỉ ăn thực vật. Người theo đạo Công giáo lại được quyền ăn mọi thứ sinh vật và thực vật trên trái đất theo lời Chúa dạy (x. St 1,28-29). Trong khi các tôn giáo đa thần hay người vô thần không cảm tạ Chúa Trời Đất trước mỗi bữa ăn, thì các tín hữu thuộc tôn giáo độc thần như Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo lại cảm tạ vì Ngài ban cho họ “lương thực hằng ngày” cũng như kêu gọi họ chia sẻ đồ ăn cho muôn loài như anh chị em trong cùng một gia đình, nhất là cho những người đói khổ.
Người Công giáo trong nhiều thế kỷ bị ảnh hưởng bởi triết thuyết Khắc Kỷ sai lạc nên đã cho thân xác là một trong ba kẻ thù (ma quỷ, thế gian, xác thịt), đã coi thường những hoạt động ăn uống, vui chơi giải trí, thể dục, thể thao, trang điểm, thời trang, làm việc chân tay và nhiều tu sĩ dùng roi đánh tội hằng đêm. Công đồng Vaticanô II đã trả lại giá trị cho thân xác khi xác định: “Con người là một với thân xác và tinh thần” và “Phải coi thân xác tốt lành và đáng trân trọng vì được Thiên Chúa tạo thành và được sống lại trong ngày sau hết”[5].
3. Văn hoá ẩm thực của người Việt
Cái nôi văn hoá của người Việt là đồng bằng sông Hồng với những trống đồng Đông Sơn có trang trí hoa văn xuất hiện khoảng 2700 năm TCN[6]. Dù sống dưới ách nô lệ của người Trung Hoa, từ năm 110 TCN đến 938, người Việt vẫn tồn tại và giữ được bản sắc văn hoá của mình, đặc biệt là về ăn uống.
Người Việt ăn uống thanh đạm một phần vì nghèo khổ do bị chính quyền vua quan, cường hào ác bá bóc lột, một phần vì bản sắc người Việt không coi trọng miếng ăn, thậm chí còn cho “miếng ăn là miếng nhục”, nên luôn giữ khí tiết trong sáng: “đói cho sạch, rách cho thơm” của mình. Người Việt ít ăn thịt, chỉ ngày lễ tết, lễ hội ăn chung ở đình làng người ta mới dám giết trâu, mổ heo để chia phần cho mọi người. Con gà nuôi cũng chỉ để đãi khách quý hay làm bữa cúng giỗ tổ tiên, ông bà. Con trâu, con bò chỉ để cày ruộng, làm việc đồng áng.
Ngoài cơm bánh cung cấp tinh bột, người Việt ăn nhiều tôm cua cá ốc bắt được ở ruộng đồng, sông biển bù lại cho lượng thịt còn thiếu. Đặc biệt người Việt phát triển nền văn hoá thực vật với những cây cỏ trồng đầy quanh nhà hay mọc đầy quanh làng. Hầu như cây nào cũng có thể ăn và làm thuốc chữa bệnh. Nguồn thực phẩm này cung cấp dồi dào vitamin và chất khoáng thay cho đồ ăn cao cấp mới được chế biến sau này như thịt, trứng, sữa, nấm và các loại rau. Vì thế, món ăn nào của người Việt cũng có thể ăn kèm thêm nhiều rau sống hay luộc chín.
Món phở của người Việt chẳng hạn, không nhiều mỡ nhiều thịt như món hủ tiếu mì của người Trung Hoa, cũng không nhiều tinh bột như của người Nhật, người Hàn, nhưng lại rất nhiều rau. Có khoảng 15-20 loại rau trong một bát phở Việt: hành lá, hành tây, giá, húng quế (rau mùi), húng cay, ngò gai, rau om, chanh, ớt, tiêu,… nước dùng ninh từ xương bò có nhiều gia vị như quế, hồi, gừng nướng, thảo quả, đinh hương, hạt ngò, hành khô nướng.
Nét văn hoá ẩm thực Việt Nam được diễn tả qua lời mời trước bữa ăn đối với mọi thành phần tham dự mâm cơm hay mâm cỗ. Người ít tuổi hay người có địa vị thấp nhất phải mời lần lượt từ người cao tuổi hay người có địa vị cao nhất xuống đến người áp sát tuổi mình. Đứa con hay đứa cháu nhỏ nhất khi được ngồi ăn chung với ông bà, cha mẹ, anh chị đều phải mời như thế. “Lời mời giúp ta ý thức bổn phận đối với gia đình, dân tộc để sẵn sàng xới cơm và nhường cho nhau những miếng ăn ngon. Nếu chưa biết nhường nhau con tôm, miếng thịt, chắc sau này ta sẽ giận hờn, đâm chém nhau vì một chút lợi, chút danh”[7]. Ngày nay nhiều gia đình dường như quên dạy cho con cái lời mời này nên nhiều xung đột cũng bắt nguồn từ đấy!
Người Việt thường bắt đầu bữa ăn bằng việc nhớ đến ông bà tổ tiên, không phải chỉ trong ngày giỗ tết. Nấu món gì ngon hay món “khoái khẩu” của người đã khuất, người ta thường múc ra bát hay đĩa rồi đặt lên bàn thờ. Bữa ăn vì thế mang tính cách hiệp thông, đồng cảm với người sống cũng như với người chết, vừa để cảm ơn người (ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ăn gạo nhớ kẻ đâm xay dần sàng), cảm ơn vật (giả ơn cái cối cái chày, đêm khuya giã gạo có mày có tao – giả ơn cái cọc cầu ao, đêm khuya giã gạo có tao có mày!), vừa để mở ra với chân trời vô biên của trời đất, vạn vật:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng.
4. Ăn là hiệp thông với muôn loài
Với tinh thần hội nhập văn hoá được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đề ra trong Tông huấn Giáo Hội tại châu Á (năm 1999), người Công giáo Việt Nam hiểu rằng ăn là hiệp thông vào sự sống và tình yêu của Thiên Chúa với muôn loài.
Ăn là hiệp thông, là hoà nhập vào một cộng đồng hay một gia đình: từ gia đình riêng tư có cha mẹ, ông bà, con cháu, đến gia đình rộng lớn hơn là dân tộc, nhân loại, vũ trụ và lớn hơn cả là gia đình Thiên Chúa. Mỗi thành phần trong cộng đồng đều có trách nhiệm xây dựng và hy sinh cho nhau như những tế bào sống trong cùng một thân thể vĩ đại, nhiệm mầu.
Khi đưa lương thực vào hệ tiêu hoá để chuyển đổi chúng thành dòng máu đỏ nuôi sống mình, là con người liên kết với vạn vật trong vũ trụ và mọi người trên trái đất. Cơm bánh, rau củ, hoa trái, thịt cá… được hoà trộn thành một chất liệu chung tạo nên sự sống, giống như muôn trái nho ép thành chén rượu và muôn hạt lúa nấu thành nồi cơm. Sự hiệp thông này mời gọi mỗi cá nhân, mỗi thành phần bỏ đi những cái riêng tư ích kỷ để hoà nhập vào cuộc sống chung và đón nhận trách nhiệm đối với muôn loài.
Việc hiệp thông vào sự sống phải dẫn người Công giáo chúng ta tôn trọng tuyệt đối sự sống của tha nhân. Vì thế, người ta không thể trở thành những kẻ “giết người” khi bán những thứ hàng độc hại, khi sản xuất những nông sản còn tồn đọng chất độc, khi ướp cá tôm, hoa trái bằng hoá chất nguy hiểm. Thiên Chúa hằng sống nhìn thấy hết mọi việc ta làm và Chúa Giêsu Thánh Thể yêu cầu ta đừng lên “ăn Người” với lương tâm ác đức. Ước mong chúng ta noi gương tín hữu Hàn Quốc chỉ bán hàng tốt, hàng sạch, hàng bổ dưỡng để tạ ơn Trời, biết ơn con người và vạn vật hy sinh sự sống cho ta, cũng như để làm chứng cho Chúa là Đấng hằng sống và luôn yêu thương ta.
Thánh Phaolô đã diễn tả sự hiệp thông đó bằng những lời tha thiết: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là chúng ta dự phần vào máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,16-17).
Sự hiệp thông này sẽ dẫn mỗi “thực khách” đến một “giao ước thiêng liêng”, đến sự hiệp thông với “giao ước mới mẻ và vĩnh cửu” (x. Mt 26,26-28; Mc 14,22-24; Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25), mà Đức Giêsu đã thực hiện cho muôn loài trong vũ trụ khi Người lập Bí tích Thánh Thể và tế lễ mình trên bàn thờ thập giá để trở thành Máu Thịt nuôi sống chúng ta. Thật vậy, mỗi khi ăn là ta ký kết một hợp đồng tinh thần và cam kết sẽ thực hiện vì mắc nợ lẫn nhau. Trong đời sống, ta mắc nợ với cha mẹ, ông bà, tổ tiên và cả nhân loại: nợ mồ hôi, nước mắt, sức lực, máu xương, trí tuệ và cả sự sống của nhiều người, nên ta phải trả nợ cho con người, cho tổ tiên và nhân loại bằng đời sống tích cực học hành, làm việc thay vì chỉ ăn để sống cho riêng mình.
Ta mắc nợ với muôn loài về sự sống, tình yêu chúng dành cho ta: bao nhiêu ngọn rau, tôm cá chết đi để ta được sống, trong khi chúng cũng yêu quý sự sống chẳng thua kém con người. Một cây xanh, dù bị chặt ngang thân, vẫn cố đâm ra những chồi non để sống. Một con giun, dù bị dẫm nát thân mình, vẫn cố lê thân về miền đất ẩm để sống. Như thế, mỗi giây phút sống của ta đều quý giá, linh thiêng, nên ta phải trân trọng, bảo vệ và phát huy để biểu lộ lòng biết ơn đối với muôn loài.
Người Công giáo không tin rằng những sinh vật là tiền kiếp của con người và phải chịu trách nhiệm theo luật nhân quả. Một con kiến đốt ta, một con chó cắn ta chỉ hành động theo bản năng và chúng không có ý thức và ý chí khi thực hiện hành động ấy, nên không thể chịu trách nhiệm về việc làm của mình để đầu thai vào một kiếp tốt hơn hay xấu hơn so với kiếp này. Hơn nữa, người Công giáo khi ăn chúng để tạo nên sự sống cho mình thì cũng là giúp chúng được chia sẻ sự sống vĩnh hằng và phi thường với con người vì chỉ con người mới có thể sống mãi mãi. Như thế, ăn là cứu độ muôn loài!
Ăn còn là hiệp thông trong tình yêu. Để tạo nên sự sống cho ta, bao con người phải vất vả làm việc, thậm chí đón nhận cả cái chết. Họ đổ biết bao giọt mồ hôi, nước mắt, sức lực ở chợ đời để đem về cho ta bát cơm, con cá. Mồ hôi đổ ra có khi còn nhiều hơn bát canh trước mặt. Có người phải vùi thân trên biển vì cơn bão bất ngờ. Có người phải cụt chân, cụt tay vì quả mìn còn sót lại trên đồng ruộng. Bao chiến sĩ đã hy sinh thân mình để bảo vệ từng tấc đất quê hương để dân tộc ta mới có được vườn rau, ruộng lúa.
Động lực khiến tất cả hy sinh cho ta ăn để sống chính là tình yêu. Muôn loài, muôn vật, muôn người đều yêu ta. Đó chẳng phải là thứ tình cảm yêu đương giữa nam nữ như người ta thường hiểu, nhưng là tình yêu trong sáng, quảng đại tạo nên bản chất thiêng liêng của muôn loài khi Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. Những bông hoa khoe sắc, toả hương cho con người mà chẳng đòi một đồng xu nhỏ, cũng chẳng cần biết họ là người tốt hay kẻ xấu. Những ngọn rau, con cá hy sinh sự sống cho con người mà chẳng cần biết họ là người công chính hay kẻ gian tà. Chúng bắt chước “Cha Trên Trời cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45).
Hiểu được và cảm nhận được tình yêu đó, chúng ta mới sẵn sàng chia sẻ những gì ta đang “quản lý” như tiền bạc, tài năng, tình yêu, sự sống cách quảng đại và vô vị lợi để đáp lại tình yêu của Chúa Trời và của muôn loài. Sống như thế ta mới đáng ăn như những người con của Trời và anh em ruột thịt của muôn loài, mới hoàn thành giao ước tình yêu.
Trong lịch sử nhân loại, dân tộc Do Thái đã nhận được lương thực từ trời mà họ gọi là “manna” trong suốt 40 năm khi họ đi trong sa mạc Sinai để tìm về Đất Hứa. Đây là thứ bột rơi trên mặt đất mỗi sáng để họ lấy về làm bánh (x. Xh 16,2-15). Bánh từ trời này sẽ giúp họ đón nhận sự sống tinh thần kỳ diệu nếu họ tin vào Đấng ban cho họ bánh ấy. Nhưng họ đã không tin và tất cả đều chết trên sa mạc (x. Ga 6, 32.49). Thiên Chúa cũng đã gửi tấm bánh lạ lùng để tiên tri Êlia ăn và nhờ lương thực này, ông đã đi suốt 40 đêm ngày để đến núi Khoreb và gặp được Ngài (x. 1V 19,4-8).
Đó chỉ là những hình ảnh báo trước về “tấm bánh trường sinh từ trời xuống” (Ga 6,51) là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để muôn loài có thể đón nhận Người và đạt được sự sống vĩnh hằng, kỳ diệu của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nhiều lần làm các phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, chữa lành bệnh tật, cho kẻ chết sống lại và chia sẻ cho tất cả các tông đồ và môn đệ quyền năng ấy nếu họ tin tưởng, đón nhận, kết hợp và “ăn” Người để làm nên một thân thể nhiệm mầu, có chung một sự sống phi thường của Thiên Chúa.
Những tín hữu Công giáo cũng đã ăn theo “giao ước mới” được Đức Giêsu thiết lập (x. Mc 14,22-24; Dt 9,11-15) để thực hiện bữa ăn “agape” (bác ái) khi cùng bẻ bánh ăn chung với nhau (x. Cv 2,42.46; 20,7). Tuy nhiên, hầu như họ vẫn chỉ đón nhận tấm bánh theo kiểu hình thức bên ngoài của bí tích Thánh Thể, vì họ chưa thật sự phát huy hiệu quả phi thường của bánh Giêsu này trong đời sống.
5. Chúng ta nên ăn như thế nào?
Ngoài ý nghĩa của đồ ăn và việc ăn về mặt tinh thần, chúng ta cũng cần lưu ý xem mình nên ăn những thức ăn nào, và tổ chức bữa ăn như thế nào cho hợp với ý nghĩa cao cả đó.
Trước hết, ta cần ăn đủ 4 chất dinh dưỡng chính của cơ thể: đường (glucid), mỡ (lipid), đạm (protid- protide), và vitamin với các muối khoáng. Nhiều người sợ béo phì, mất đi hình dáng thon thả nên ăn rất ít tinh bột, chất béo, chỉ ăn nhiều rau. Có người lại không ăn rau vì có lần thấy con sâu lẫn trong rau, hoặc không ăn cá biển vì ngửi thấy tanh. Có người bị rối loạn tâm lý về ăn uống khiến họ tránh thức ăn, nôn mửa khi ăn hoặc làm cho họ ăn uống quá mức (chứng cuồng ăn)[8]. Họ cần được điều trị về tâm lý và hỗ trợ về dinh dưỡng.
Do cơ thể của mỗi người cao thấp, gầy béo, già trẻ, giới tính, hoàn cảnh xã hội, môi trường sống khác nhau nên lượng đồ ăn đưa vào cũng khác nhau. Hiện nay người ta tính lượng đồ ăn này theo số calo, nhưng các quốc gia lại đề nghị số calo khác nhau. Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO) cho rằng nhu cầu tối thiểu của một người trung bình là 1.800 calo/ngày. Cơ quan Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh lại ấn định nam giới trưởng thành trung bình cần 2.500 calo/ngày và nữ giới là 2.000 calo/ngày. Cơ quan Y tế Hoa Kỳ lại quy định con số cao hơn: 2.700 calo/ngày của nam giới và 2.200 calo/ngày cho nữ giới[9].
Đúng ra, chúng ta không cần đếm chính xác số calo, nhưng cần quan tâm đến chế độ ăn uống lành mạnh và cân đối giữa 4 chất chính, vận động thể chất, cân đối giữa lượng calo nạp vào và lượng calo đốt cháy mỗi ngày. Nếu là người làm việc chân tay, ta cần ăn nhiều chất đường để vận động các cơ bắp. Nếu là người làm việc nghiên cứu, lao động trí óc, ta cần ăn thêm chất đạm và bớt ăn các tinh bột tạo ra đường.
Hiện nay nhiều cơ quan đã trình bày “tháp dinh dưỡng hợp lý” [10] để ăn trong một ngày, một tuần, một tháng. Nói chung, ta nên ăn đủ các loại bánh mì, cơm, ngũ cốc; tiếp đến là các loại rau củ quả. Ta ăn vừa phải các loại phô mát, sữa chua, trứng, thịt cá. Ăn ít các loại dầu mỡ, đường và hạn chế tối đa muối, các đồ ăn có chất cồn, các đồ ăn chế biến sẵn, nước uống có gas, đường. Người Việt chúng ta vì ăn quá nhiều muối nên có nhiều người bị các bệnh tim mạch, gan thận. Không nên ăn quá 6g muối một ngày. Nhiều trẻ em bị bệnh béo phì, chậm phát triển trí não vì cha mẹ chiều con nên cho ăn quá nhiều chất béo, chất đường qua đủ loại đồ uống, bánh kẹo.
Thái độ ăn uống của người Việt cũng cần thay đổi cho hợp với nền văn hoá mới. Sau nhiều thế kỷ bị nô lệ cho ngoại bang, bị áp bức bóc lột bởi chế độ quân chủ độc tài, mang tâm trạng sợ phải ăn đói, mặc rách nên người ta thường tham ăn và tích trữ đồ ăn. Có dịp ăn ngon, ăn không phải trả tiền trong các lễ hội là họ ăn xả láng, lấy cho mình thật nhiều đồ ăn dù ăn không hết và bỏ mặc người khác phải đói. Ta thấy điều này thường xảy ra trong các bữa tiệc, bữa ăn buffet. Họ ăn vội vã, cười nói to tiếng, vứt các đồ ăn thừa và giấy lau đầy dưới chân bàn như một bãi rác. Họ không nhận ra giá trị của vật chất hy sinh cho họ, nên bỏ thừa mứa các đồ ăn, không hiểu ý nghĩa cao quý của các mối tương quan xã hội trong bữa ăn qua sự đồng cảm và tạ ơn Trời đất như tổ tiên họ đã làm.
Chúng ta cần phải học lại bài học lịch sự, ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, nói năng nhỏ nhẹ trong bữa ăn. Dù ở trong gia đình, chúng ta cũng nên ăn mặc gọn gàng, đứng đắn vì bữa ăn còn là một dịp để ta thể hiện sự hiệp thông vào sự sống và tình yêu với muôn loài cũng như với thế giới tâm linh.
Hiểu được ý nghĩa cao cả của việc ăn uống, từ nay chúng ta sẽ tổ chức bữa ăn gia đình hằng ngày thành một cơ hội quý báu để diễn tả mối hiệp thông, tình liên đới trong tình yêu và sự sống của mọi thành viên: dù hoàn cảnh xã hội đô thị hoá hiện nay khiến vợ chồng, cha mẹ, con cái có thể đi học, đi làm trái giờ nhau, nhưng chúng ta cần tổ chức bữa ăn gia đình cho tươm tất mỗi tuần một vài lần, có đủ mặt mọi thành viên. Chúng ta có thể phân công cho mọi thành viên trong gia đình những công việc như sắp chén bát, nấu ăn, sắp bàn ăn, rửa chén bát.
Trừ trường hợp cả nhà muốn xem một chương trình trên tivi, giờ ăn nên tắt tivi để cùng nói chuyện, chia sẻ cho nhau những buồn vui trong đời sống. Tuy nhiên, đừng biến giờ ăn thành giờ luân lý, dạy dỗ con cái, phê bình, nói xấu người khác hay thành cuộc tranh luận căng thẳng về một vấn đề nào đó. Chúng ta chỉ nên nói chuyện vui, theo hướng tích cực để khích lệ mọi người.
Những ai đảm nhận việc nấu ăn nên biết tính toán số calo trong các thức ăn, nấu những món đơn giản nhưng ngon và đủ chất bổ dưỡng, để đừng tốn quá nhiều thời giờ cho việc ăn uống. Chỉ nên nấu lượng món ăn vừa đủ, ăn trong ngày thay vì nấu quá nhiều rồi đổ đi hay cất giữ trong tủ lạnh nhiều ngày. Nhiều gia đình thành thị đang lạm dụng việc trữ lạnh các đồ ăn để ăn cả tuần, cả tháng. Các đồ ăn khi rã đông đều mất đi nhiều chất dinh dưỡng, không ngon và có thể gây độc vì một số vi khuẩn, vi trùng có thể vẫn còn sống. Ta cũng cần biết một số những thực phẩm kỵ nhau gây chết người theo kinh nghiệm của dân gian và cũng đã được khoa học xác nhận để tránh bị ngộ độc.
Chúng ta cũng chỉ nên ăn vừa phải, không nên ăn quá no hay ăn nhiều một loại đồ ăn nào theo ý thích của mình vì việc tiết ra thật nhiều các men tiêu hoá để phân giải đồ ăn sẽ làm cho các bộ phận trong hệ tiêu hoá phải làm việc quá mức. Tốt hơn nên ngừng ăn lúc còn đang thèm ăn thêm để tạo cảm xúc thích thú thay vì nhàm chán, ghê sợ đồ ăn. Cần nhai kỹ để dễ tiêu hoá đồ ăn. Không nên ăn trên giường ở tư thế nằm, trừ khi bị bệnh nặng. Không nên ngồi vào bàn làm việc, đọc sách, xem phim, … ngay sau khi ăn no vì các cơ quan trong hệ tiêu hoá cần tập trung máu để tiêu hoá đồ ăn. Nếu vận hành bộ não nhiều lúc đó, sẽ tạo ra sự căng thẳng, xáo trộn trong hệ tiêu hoá, dẫn đến bệnh tật.
Lời kết
Trong nền văn minh tình yêu và văn hoá sự sống, ta không còn chỉ đạt tới điểm “ăn ngon, mặc đẹp”, nhưng “ăn thần, mặc thánh” nghĩa là ăn để phát huy đời sống tinh thần, để trở nên thần thánh, vượt ra khỏi vật chất, không gian, thời gian và sống cho những giá trị siêu việt của tinh thần. Như thế, niềm mơ ước của Tần Thuỷ Hoàng tìm được của ăn trường sinh bất lão đã được chúng ta biến thành hiện thực nhờ Đức Giêsu Kitô, vì Người thật sự là “bánh hằng sống từ trời xuống” (Ga 6,51). Lịch sử của Giáo hội Công giáo đã và đang làm chứng về điều đó. Bạn có bao giờ mơ ước ăn được tấm bánh đó không?
Câu hỏi gợi ý
1. Bạn suy nghĩ gì về việc ăn uống hằng ngày của mình?
2. Bạn dự tính thay đổi bữa ăn của gia đình mình như thế nào để thể hiện mối hiệp thông trong tình yêu và sự sống?
[1] X. A.Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y học, 2015, tr.78.
[2] X. A.Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y học, 2015, tr.350-361.
[3] X. A.Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y học, 2015, tr.014.
[4] X. Bài Thẻ Tre 2000 năm, gọi là “Tần giản”, khai quật vào năm 2002 ở cổ thành Lý Da, Hà Nam, có niên đại 222 TCN – 208 TCN tiết lộ mật lệnh tìm tiên dược của Tần Thuỷ Hoàng, Internet, ngày 12/3/2018, Sơn Tùng.
[5] X. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, 1965, số 14.
[6] X. HĐGMVN, Niên giám 2016 GHCGVN, NXB Tôn Giáo, 2016, tr.172.
[7] X. Nguyễn Ngọc Sơn, Sứ điệp loài Hoa, NXB Tổng Hợp TPHCM, 2008, in lần thứ 4, tr.19.
[8] X. A.Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y học, 2015, tr.443.
[9] X. Dân Trí Việt Nam, Bạn nên ăn bao nhiêu calo một ngày? Internet, 20/7/2016,. Cẩm Tú đăng.
[10] X. Dinhduong.online tổng hợp, bài Phân tích tháp dinh dưỡng cho người lớn khoẻ mạnh, Internet, ngày 17/8/2018.