Giấc mơ trường lớp từ trang vở: Nỗi khổ miền xuôi khó thấu
Những ngôi trường cho ra trường, những thầy cô trẻ mới lên… là giấc mơ của nhiều học sinh vùng cao…
Giấc mơ trường lớp từ trang vở: Nỗi khổ miền xuôi khó thấu
Những ngôi trường cho ra trường, những thầy cô trẻ mới lên… là giấc mơ của nhiều học sinh vùng cao…
Đề bài tập làm văn đầu tháng 11 của các em lớp 9 Trường phổ thông Dân tộc bán trú THCS Nậm Ngà (Tà Tổng – Mường Tè – Lai Châu) của cô giáo Đào Thị Phượng ra như sau: “Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày hè, em trở lại thăm trường cũ. Em hãy viết một bức thư cho một người bạn học cùng lớp hồi ấy, kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó”.
Đã là may mắn, nhưng vẫn còn quá khổ
Chúng tôi may mắn được đọc vài bài văn của những học sinh ở Nậm Ngà. Dù óc tưởng tượng của mỗi em khác nhau về tương lai, nhưng ngôi trường ký ức trong các bài văn chính là hiện thực mà chúng tôi đã chứng kiến.
Lỳ Chùy Cà là học sinh lớp 9A, người dân tộc Hà Nhì, viết: “Pềnh ơi, ngôi trường cũ của chúng mình ngày xưa đã bị mục nát, một ngôi trường mới hai tầng đã được xây lên”…
“Các thầy cô dạy mình ngày xưa đã chuyển về quê và có nhiều thầy cô trẻ lên dạy. Cậu còn nhớ thầy Pờ Pó Cà dạy môn hóa lớp mình không? Thầy đã già và gầy đi rất nhiều, không béo như thời dạy chúng mình…”.
Câu chuyện của thì tương lai… 20 năm sau trong bài văn những cô cậu học trò dân tộc Hà Nhì, dân tộc Mông ở Nậm Ngà khi về thăm trường đều nói không còn gặp lại thầy cô giáo ngày xưa. Thầy giáo cũ chỉ còn mỗi thầy… Pờ Pó Cà.
Pềnh ơi, ngôi trường cũ của chúng mình ngày xưa đã bị mục nát, một ngôi trường mới hai tầng đã được xây lên
Học sinh Lỳ Chùy Cà viết trong bài tập làm văn
Câu chuyện về ngày 20-11 năm nay ở điểm trường Nậm Ngà, một bản xa xôi hẻo lánh vào hàng khó khăn nhất Tây Bắc, lại liên quan đến thầy Cà, thầy giáo người Hà Nhì, đã tốt nghiệp khoa hóa Đại học Tây Bắc và nay về dạy ở ngay quê nhà của thầy: Nậm Ngà.
Bài toán giáo viên, bài toán về khó khăn khi cắm bản có thể bắt đầu từ những người thầy bản địa như vậy.
Trong khi những học sinh ở Nậm Ngà hình dung câu chuyện tương lai 20 năm sau trong giờ tập làm văn của cô Phượng, chúng tôi lại cùng với thầy Nguyễn Long Khánh, hiệu trưởng Trường THCS Nậm Ngà, hồi tưởng ngược về quá khứ của hơn 10 năm trước.
Thầy Khánh kể: “Năm 2006, tôi tốt nghiệp lớp sư phạm nông nghiệp của Trường đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội. Cũng may là vì có dính đến sư phạm nên khi biết những bản miền núi Tây Bắc đang thiếu giáo viên, tôi tìm lên Mường Tè xin đi dạy học.
Những năm đó chưa có đường đi dù chỉ là xe máy, chỉ là lối mòn xuyên qua hun hút dốc Tà Tổng. Từ huyện lỵ xuôi về cảng Bô Lếch rồi qua sông Đà và bắt đầu cuốc bộ, cứ đi, đi mãi, lên tới trung tâm xã Tà Tổng nếu trời không mưa thì mất hơn một ngày đường.
Hôm sau cứ tiếp tục thế, từ trung tâm xã về Nậm Ngà thêm một ngày nữa nếu đi khỏe, còn các cô giáo thì có khi phải vào bản ngủ nhờ. Đấy là thời tiết bình thường, còn mùa mưa thì thời gian không định trước được”.
Nhắc lại hành trình nhọc nhằn ấy, thầy Khánh bảo: Bây giờ vẫn còn khổ, so với miền xuôi thì quá khổ, nhưng so với ngày xưa thì như thế này đã là may mắn.
Dốc Tà Tổng và chuyện chai nước tương
Tây Bắc mênh mông, nhưng Lai Châu luôn là vùng đất thực sự có sức gợi về sự thăm thẳm. Và nhắc tới Lai Châu không thể không nhắc tới Mường Tè. Nói tới Mường Tè phải nhớ đến dốc Tà Tổng. Tà Tổng, đấy là con đường từ huyện vào bản Nậm Ngà này.
Mấy năm trước, khi gặp Pờ Hùng Sang, bí thư Huyện đoàn Mường Nhé (tỉnh Điện Biên), nhắc lại ký ức học trò, Pờ Hùng Sang chỉ nhớ mỗi con dốc Tà Tổng này.
Ngày xưa, Mường Tè (thuộc tỉnh Lai Châu) và Mường Nhé (nay thuộc Điện Biên) là cùng huyện Mường Tè. Pờ Hùng Sang từ bản Tả Kố Khừ quê hương cậu muốn ra trường huyện học phải đi bộ đúng 147 cây số.
Tôi hỏi Sang: 147 cây số thì đi mất mấy ngày? Sang bảo: Năm ngày anh ạ! Ngày thứ nhất đi bộ từ bản Tả Kố Khừ ra ngủ tại Chung Chải, cách nhà 30 cây số. Ngày thứ hai đi tiếp từ Chung Chải ra ngủ tại dốc Tà Tổng (Nậm Dìn, Mường Tè).
Con dốc Tà Tổng này hiểm trở khét tiếng nên có khi đi mất hai ngày, có khi ba ngày, nếu khỏe thì đi tiếp từ Tà Tổng ra Mường Tè trong ngày thứ tư, có khi mưa lũ, suối dâng thì mất 5-6 ngày mới đến. Ra tới Mường Tè chân sưng, đau chảy nước mắt nhưng rồi lại ôm vở lên lớp.
Suốt mấy năm từ cấp 1 lên cấp 2, Sang vẫn đi con đường Mường Tè – Sín Thầu, Sín Thầu – Mường Tè như thế.
Thầy Khánh bảo: “Tôi vào Nậm Ngà dạy được bốn năm thì bắt đầu có đường cho xe máy đi vào Nậm Ngà, đó là năm 2010”.
Đến bây giờ, đường cho xe máy đi mới được bảy năm, nhưng thầy Khánh đã thay đến chiếc xe máy thứ ba, bởi leo con dốc Tà Tổng này khó có máy móc nào trụ lâu được.
Hôm chúng tôi lên, chỉ dốc hun hút, hun hút, con đường như sợi chỉ chênh vênh bên triền mây. Cô giáo Đỗ Lan Hương, hiệu trưởng Trường mầm non Nậm Ngà, chạy xe máy dẫn đường.
Nhìn bóng cô giáo lẻ loi phía trước giữa hoang vu rừng núi, thăm thẳm dốc dài, không khỏi se lòng khi nghĩ đến bao nhiêu thế hệ thầy cô cắm bản ở chốn thâm sơn này.
Một chuyện buồn mà cười, đang đi thì anh Quang, tài xế, kéo thắng xe và bảo: Có chai nước tương ai đánh rơi, anh xuống nhặt lên đi. Cho đến khi vượt qua ngầm, gặp lại cô giáo Hương, đưa chai tương cho cô giáo, cô Hương nhìn xuống cái túi bóng treo trước xe máy rồi kêu lên đầy đau khổ: “Thôi chết, cả mấy chai tương của em rơi hết rồi!”.
Hóa ra chai nước tương chúng tôi nhặt được là của cô Hương tranh thủ ra huyện họp nên mua về cho bếp ăn. Cả cái túi bóng đựng mấy chai nước tương và các đồ lặt vặt treo ở xe máy do đi đường dằn xóc làm thủng túi, rơi sạch, chỉ còn chai tương chúng tôi may mắn nhặt lại cho cô.
Có lẽ những gì chúng tôi kể về con đường vào Nậm Ngà chi tiết đến đâu cũng không thể đầy đủ và ấn tượng như cái clip mà cô giáo Đào Thị Phượng đã quay lại và giới thiệu trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 13-8-2017 trong bài Gian nan này ai thấu thầy cô.
Gian nan này ai thấu thầy cô
So với các thầy cô ở Nậm Ngà, Đào Thị Phượng là “tân binh” bởi cô chỉ vừa trải qua năm học đầu tiên ở Nậm Ngà với vai trò giáo viên dạy văn trung học cơ sở, và đề tập làm văn của cô ra cho học sinh được kể lại ở đầu bài viết này cũng dường như ấp ủ phần nào ước mơ của cô Phượng.
Không như thầy Khánh đến Nậm Ngà bằng cách lội bộ đường rừng mất mấy ngày, cô Phượng vào Nậm Ngà bằng xe máy. Đường từ huyện vào Nậm Ngà thay vì đi bộ vài ngày như hồi trước, nay chỉ đi mất hơn một buổi bằng xe máy.
Nhưng đi xe máy vượt dốc Tà Tổng là một thử thách với cô gái chân yếu tay mềm mới tốt nghiệp đại học như Phượng. Thế rồi cô cũng quen dần, dù hôm trở lại trường Phượng đã phải khóc vì… sợ trên con đường vào lại Nậm Ngà.
Nhưng sự hi sinh của thầy cô giáo ở chốn rẻo cao này đâu chỉ là chuyện con đường gian khó, chuyện nước lũ suối dâng… Quá xa cách với trung tâm nên hầu hết thầy cô giáo lập gia đình xong, nếu có con thì đành gửi con về xuôi cho ông bà.
Nỗi buồn xa con, nỗi thiệt thòi của những đứa con xa bố mẹ chắc chắn không một “phụ cấp miền núi” nào bù đắp được.
Như thầy Khánh lên Nậm Ngà vào đầu năm học 2006, đến đầu năm học 2007 cô giáo Đinh Thị Mai Hương cũng cùng quê từ Phú Thọ lên nhận nhiệm sở ở đây. “Nặng tình đồng chí lại đồng hương”, thầy Khánh “tia” ngay và cuối năm 2007 họ cưới nhau.
Cưới nhau, sinh con nhưng điều kiện công tác, điều kiện y tế ở bản heo hút lội bộ mấy ngày đường rừng này thì không ai đủ can đảm để cho con sống cùng, nhỡ ốm đau gì lại khổ cho con, khổ cho mình.
Con đầu của vợ chồng thầy Khánh sinh năm 2008, khi được 11 tháng đã gửi cho ông bà nội nuôi, bố mẹ lo trở lại Nậm Ngà dạy học, lâu lâu ra huyện chuyển lương về cho ông bà nuôi cháu. Vậy mà cũng ngót mười năm.
Nhìn những tấm hình con cái phóng to treo ở đầu giường trong các phòng tập thể giáo viên, nghĩ về một tuổi thơ thiếu vắng bố mẹ của những đứa trẻ, nghĩ về những năm tháng xa con của những đôi vợ chồng giáo viên, cứ nghe nghẹn đắng.
Đó cũng là một thách thức còn hơn cả con đường đau khổ trong câu chuyện “gian nan này ai thấu thầy cô”.
Và ngôi trường trong mơ…
Bài tập làm văn của các em học sinh Nậm Ngà đều mơ ước hai mươi năm sau là ngôi trường khang trang xinh đẹp bên dòng suối Nậm Ngà, chắc các em chỉ dám mơ tới đó khi mà phòng học của các em bây giờ chỉ là những mái tôn, tường gỗ cũ kỹ.
Nếu từng thấy ngôi trường Lũng Luông được xây ở huyện Võ Nhai (Thái Nguyên), chắc chắn các em sẽ mơ ngay về một ngôi trường như thế.
Mà không chỉ các em, chính chúng tôi, những người đã gần hai mươi năm nay đi đi về về với rẻo cao Tây Bắc, khi đến Lũng Luông cũng chỉ dám tưởng tượng đến thế: ước gì những ngôi trường rẻo cao đều đẹp theo cách của Trường Lũng Luông.
Con đường từ thành phố Thái Nguyên vào đến xã Thượng Nung (huyện Võ Nhai) hơn 40 cây số, còn từ trụ sở xã Thượng Nung lên bản Lũng Luông chỉ 6 cây số, nhưng trước đây thời gian đi quãng đường 6 cây số ấy nhiều hơn quãng đường từ thành phố vào đây.
Ngôi trường mơ ước của học trò ở Lũng Luông – Video: NGUYỄN KHÁNH
Một đồng nghiệp ở báo Thái Nguyên cho biết Lũng Luông tuy chỉ cách Hà Nội 100 cây số đường chim bay, nhưng gian nan không kém gì những ngôi trường heo hút nơi biên giới.
Trong khi nhiều người đến Lũng Luông đều trầm trồ với lối thiết kế khác lạ, nhìn giản dị thân thiện nhưng rất tiện nghi của trường mới thì chúng tôi tìm đến trước một căn nhà gỗ chơ vơ cuối khu trường. Đó là một phần chứng tích của ngôi trường cũ dường như được giữ lại để kỷ niệm.
Có hàng trăm ngôi trường trên dọc dài núi rừng Tây Bắc này được dựng tạm lên như thế, vách gỗ sơ sài và mái lợp tôn hoặc tấm lợp fibro, sang hơn một chút thì nền được láng ximăng.
Thậm chí có nơi như ở Mường Nhé, Mường Tè chúng tôi từng gặp những ngôi trường lớp bằng bạt nhựa, che chắn vách tường cũng là bạt, loại bạt hai mặt hai màu xanh và đỏ cam, nhìn rực rỡ một cách tội nghiệp.
Từ cái lán “chứng tích” tôi nhìn vào khuôn viên Trường Lũng Luông mới, dễ liên tưởng tới những câu chuyện cổ tích về những chàng cóc xấu xí, rồi nhờ phép mầu hóa thân thành hoàng tử hay cô Lọ Lem trở thành công chúa.
Những người có công biến ngôi trường “Lọ Lem” Lũng Luông thành công chúa như hôm nay chính là nhà báo Trần Đăng Tuấn, chủ tịch Quỹ Trò nghèo vùng cao, hay thân thuộc hơn theo cách lâu nay mọi người vẫn gọi là “ông Tuấn – Cơm có thịt”. Cùng với ông Tuấn là giáo sư Ngô Bảo Châu – chủ tịch danh dự của quỹ này…
Và bản thiết kế của kiến trúc sư Hoàng Thúc Hào đã thực sự làm cho điểm trường Lũng Luông sáng lên như một bó hoa rừng, tươi tắn và không kém phần lộng lẫy.
Thay cho những ngôi trường thiết kế kiểu “đồng phục”, Lũng Luông vượt khỏi những khuôn phép để gần gũi với thiên nhiên hơn. Dường như đây không chỉ là một ngôi trường, đây là bao nhiêu yêu thương được trao gửi cho các em nhỏ giữa núi rừng, là rất nhiều tin cậy ấm áp được dành tặng thầy cô.
Thầy giáo Pờ Pó Cà
Thầy giáo Pờ Pó Cà – Ảnh: L.Đ.D.
Pờ Pó Cà sinh năm 1992. Học hết bậc tiểu học tại điểm trường Nậm Ngà, Pờ Pó Cà chuyển ra học cấp 2 tại Trường Tà Tổng. Con đường từ bản ra Tà Tổng ngày nay đi xe máy chưa đầy hai giờ, nhưng ngày thầy đi học vẫn còn phải đi bộ mất hơn một ngày.
Niềm vui lớn nhất của Cà ngày đó là những hôm trở lại trường trúng buổi chợ, có ngựa thồ của dân từ bản ra, cậu học trò lớp 7 gửi nhờ túi đồ đựng 15kg gạo và một ít rau cải. Làm sao có thể hình dung một cậu bé chỉ 13 tuổi cõng trên lưng 15kg gạo để băng qua gần bốn chục cây số đường rừng ra trường học?
Sau khi học xong cấp 2 ở trung tâm Tà Tổng năm 2005, con đường đến trường của Cà nối dài thêm 40 cây số để ra tận huyện lỵ – thị trấn Mường Tè học tiếp cấp 3. Cũng vẫn là đi bộ!
Tốt nghiệp THPT, nhìn bạn bè cùng trang lứa nô nức làm hồ sơ đi thi chuyên nghiệp, Pờ Pó Cà lại ngậm ngùi tạm gác ước mơ thi vào đại học của mình. Gia đình quá khó khăn, không thể lo cho Cà đi học được. Ở nhà giúp gia đình làm nương, rảnh rỗi Cà lại mang sách vở ra ôn lại với hi vọng có ngày mình được tiếp tục thực hiện ước mơ đó.
Năm 2012, Cà làm hồ sơ và quyết định thi vào khoa sư phạm hóa học Trường đại học Tây Bắc tại Sơn La và thi đỗ. Cả bản Nậm Ngà vui sướng. Nậm Ngà đã có người đi học đại học. Cậu sinh viên Cà lại khăn gói về Sơn La nhập học.
Ngỡ rằng với sức phấn đấu như thế, Cà có thể kiếm được việc làm sau khi tốt nghiệp đại học. Nhưng khi ra trường chưa xin được việc, ông cử nhân sư phạm hóa lại đi đóng gạch thuê! Tháng 10 năm ngoái, hồ sơ của Cà được duyệt và “ưu tiên” khi được về dạy ngay Trường THCS Nậm Ngà quê mình.
Một khi trường học được dạy bởi những thầy cô người bản địa, khái niệm “cắm bản” sẽ đơn giản hơn. Nhưng điều đó sẽ là bao giờ khi mà cả mấy chục năm rồi, nay mới có một cử nhân sư phạm như thầy Pờ Pó Cà đang đứng lớp?
Chuẩn bị thêm một ngôi trường trong mơ
Hôm chúng tôi trao đổi với nhà báo Trần Đăng Tuấn về điểm trường Lũng Luông, ông cho biết Quỹ Trò nghèo vùng cao chuẩn bị xây thêm một trường mới nữa ở Pu Xi (Tuần Giáo, Điện Biên), lớn hơn Trường Lũng Luông và thiết kế cũng khác hơn.
Nhưng lang thang dọc dài rẻo cao bao nhiêu năm, không biết bao giờ hàng ngàn điểm trường xinh đẹp, thân thiện, tiện ích… cho các em được như Lũng Luông hôm nay hay Pu Xi mai này?