“Lò sản xuất”… tiến sĩ! Mỗi năm 350 chỉ tiêu là… khiêm tốn!
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội khẳng định không có luận án tiến sĩ nào mông lung, xa vời
“Lò sản xuất”… tiến sĩ!
Mỗi năm 350 chỉ tiêu là… khiêm tốn!
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội khẳng định không có luận án tiến sĩ nào mông lung, xa vời
Sau khi báo chí phản ánh việc nghiên cứu sinh của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội liên tục bảo vệ thành công luận án tiến sĩ (TS) và đây là một “lò sản xuất TS” khi 1 ngày rưỡi cho ra 1 TS (Báo Người Lao Động ngày 22-4), cùng ngày, viện này đã tổ chức họp báo để giải đáp các vấn đề mà báo chí đặt ra.
Khả năng đào tạo được nhiều tiến sĩ hơn nữa!
GS Võ Khánh Vinh, Giám đốc Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội, cho hay hiện học viện có 20 khoa, đào tạo 36 ngành TS. Số giảng viên của học viện là 412, trong đó có 19 giáo sư, 175 phó giáo sư, còn lại là TS. Học viện cũng vận động giảng viên có trình độ TS trở lên ở các trường trên cả nước tham gia giảng dạy, nâng tổng số giảng viên lên trên 2.000 người.
Theo GS Vinh, căn cứ số chỉ tiêu TS với cơ sở đa ngành thực hiện đào tạo nhân lực cao, lại là cơ sở duy nhất trong cả nước chỉ đào tạo thạc sĩ và TS về khoa học xã hội, thì con số 350 chỉ tiêu/năm còn khiêm tốn! Chỉ tiêu hằng năm của học viện là 350, chia đều cho 36 ngành thì mỗi ngành có chưa đầy 10 chỉ tiêu.
“So với khả năng hiện có, chúng tôi còn có thể đào tạo số lượng nghiên cứu sinh nhiều hơn. Một số ngành rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước nhưng thực tế số chỉ tiêu đào tạo TS vẫn còn ít ỏi” – ông Vinh khẳng định.
Chia sẻ về quy trình đào tạo TS của học viện, GS Vinh nhấn mạnh quy trình rất chặt chẽ. Việc bảo vệ đề tài của nghiên cứu sinh phải đúng niên hạn. Nghiên cứu sinh nào không làm đúng sẽ gửi trả về, nếu học lại sẽ phải đúng 3 năm và đó là thành công trong đào tạo TS của học viện. “Tổng đào tạo trong 3 năm là hơn 1.000 nghiên cứu sinh, trong đó số lượng trả về và không quay trở lại khoảng 10%, khoảng 20% bảo vệ quá hạn, số còn lại đúng hạn” – ông Vinh cho hay.
Trước băn khoăn của các phóng viên rằng với tốc độ đào tạo TS như hiện tại, liệu Việt Nam có tiến tới phổ cập TS, GS Vũ Dũng, Viện trưởng Viện Tâm lý học, kể khi ông sang ĐH Tokyo (Nhật Bản) làm việc, họ thiếu một giảng viên nhưng đang có 20 TS đăng ký thi. “Chỉ một câu chuyện như vậy để thấy chúng ta nhiều hay ít TS hơn so với thế giới” – GS Dũng so sánh.
Luận án đâu cần to tát, hoành tráng!?
Liên quan đến vấn đề dư luận quan tâm là chất lượng đào tạo TS ở học viện ra sao, GS Vinh nhấn mạnh học viện không du di, nhẹ tay với nghiên cứu sinh. Việc thực hiện các đề tài luận án TS được công khai hóa trên trang web của học viện để xã hội giám sát, bảo đảm trải qua 3 bộ lọc: chuyên môn, xã hội, đạo đức.
Theo lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, trong số 10% luận án tiến sĩ được Bộ Giáo dục và Đào tạo chọn ngẫu nhiên chấm thẩm định lại, không có luận án nào của học viện không đạt yêu cầu. Tới đây, học viện có phần mềm để có thể phát hiện những hiện tượng gian lận khi làm đồ án, “copy” luận án người khác.
Nói thêm về những luận án bị cho là chưa đủ tầm, GS Vũ Dũng cho rằng đề tài “Đặc điểm giao tiếp với dân của chủ tịch UBND xã” là đề tài hay, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất tốt, được các cấp hội đồng đánh giá cao. “Nếu không có giao tiếp thì không có con người. Từ trước đến nay chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này, Việt Nam có 11.164 xã, đồng nghĩa có 11.164 chủ tịch xã, rất đáng để nghiên cứu. Vì sao đề tài nghiên cứu ở chủ tịch cấp xã? Vì đó là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống chính trị của chúng ta, chính sách có đi vào cuộc sống hay không phụ thuộc rất nhiều vào chính quyền cấp xã. Chủ tịch xã có hiểu được dân hay không, nắm được dân hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào vấn đề giao tiếp. Vì thế, chúng tôi cho đây là đề tài rất thực tiễn. Số lượng cán bộ đơn vị cấp cơ sở lớn như vậy có đáng để nghiên cứu không, các bạn hãy tự trả lời xem?” – ông Dũng đặt câu hỏi.
GS Dũng cũng cho rằng trong suy nghĩ của nhiều người, luận án phải to tát, hoành tráng. “Hoàn toàn không phải vậy. Tôi đi 20 nước, đã tới hàng chục trường ĐH ở các nước phát triển, những vấn đề họ nghiên cứu hết sức cụ thể. Ví dụ, có những đề tài nghiên cứu về hành vi viết chữ trong nhà vệ sinh, nhổ nước bọt ngoài đường… Nếu ở Việt Nam, việc đó sẽ thành vớ vẩn nhưng ở nước ngoài lại được đánh giá có tính thực tiễn, văn hoá lớn”.
Theo ông Dũng, các đề tài nghiên cứu của học viện nói chung xuất phát từ yêu cầu gắn với thực tiễn. “Đề án được bảo vệ phải qua quy trình 8 bước. Chặt chẽ như thế thì không có đề tài vớ vẩn, vô nghĩa nào được đưa ra bảo vệ” – ông nhấn mạnh.
GS Vinh cũng khẳng định luận án TS nêu trên đã rất thành công!
Số lượng tiến sĩ “còn ít”
GS Vinh khẳng định hiện nay Việt Nam vẫn còn ít TS. Số lượng TS trong các cơ sở giáo dục chiếm tỉ lệ ít nên các trường đang tăng cường đào tạo nhân lực trình độ này. “Không thể nhìn số lượng 350 chỉ tiêu hằng năm rồi cho là lớn mà phải nhìn tầng cao hơn nữa, ở tỉ lệ trong tổng số dân 90 triệu người” – ông nói.