28/11/2024

Ba Son – trăm năm chìm nổi

Toạ lạc giữa ngã ba sông Sài Gòn, ngay khu trung tâm thành phố, có lịch sử đến nay đã 225 năm, nhưng cũng hàng trăm năm nay khu Ba Son vẫn luôn là một bí ẩn với chính người Sài Gòn sau bức tường quân sự…

 

Ba Son – trăm năm chìm nổi

 

Toạ lạc giữa ngã ba sông Sài Gòn, ngay khu trung tâm thành phố, có lịch sử đến nay đã 225 năm, nhưng cũng hàng trăm năm nay khu Ba Son vẫn luôn là một bí ẩn với chính người Sài Gòn sau bức tường quân sự…



Xưởng thủy trên bản đồ tỉnh Gia Định năm 1815 của Trần Văn Học - Ảnh tư liệu
Xưởng thuỷ trên bản đồ tỉnh Gia Định năm 1815 của Trần Văn Học – Ảnh tư liệu

Kỳ 1: Xưởng thủy thành Gia Định

Tại đây, cách nay 90 năm, ngày 4-8-1925, một sự kiện mang tính biểu tượng của giai cấp công nhân đã diễn ra và thời điểm đó cũng được chọn làm ngày truyền thống Ba Son. 

Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức chép: “Sông Tân Bình (tức sông Sài Gòn – PV), ở đất phủ Tân Bình, trước thành Gia Định, tục gọi là sông Bến Nghé, rộng lớn trong sâu.

Tàu buôn của nước nhà cùng các nước, thuyền biển thuyền sông, ghe xuồng nối nhau, buồm chèo chen chúc, là một nơi đại đô hội…”.

Bước dài của nghề đóng tàu

Đến hôm nay, khu vực bến sông Sài Gòn vẫn nguyên tính chất “đại đô hội”, trên bến dưới thuyền.

Và ngay ở đó, năm 1791, song song với việc xây dựng thành Gia Định, chúa Nguyễn Ánh đã lập một xưởng chu sư, mà người dân thường gọi là xưởng thuỷ, để phục vụ cho sở trường thuỷ chiến của mình trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn.

Gia Định thành thông chí chép: “Xưởng chu sư ở phía đông thành, cách một dặm theo bờ sông Tân Bình, quanh sông Bình Trị (tức rạch Thị Nghè – PV), gác và che các đồ thuyền hải đạo. Xưởng giăng dài 3 dặm”.

Trong tập Tư liệu dùng cho lịch sử Sài Gòn, tác giả Jean Bouchot mô tả vị trí xưởng chếch lên phía Thảo cầm viên và cho biết ở đó vẫn còn những dấu vết ụ đóng và sửa tàu khi xưa. Trong gia phả họ Phan vùng Thị Nghè lại cho biết xưởng chu sư được lập ở ngã ba rạch Văn Thánh và Thị Nghè.

Bản đồ tỉnh Gia Định năm 1815 của Trần Văn Học ghi rõ chữ “Xưởng Thuỷ” và cho thấy xưởng rất rộng, Ba Son ngày nay chỉ là một phần trong khu vực phía đông của xưởng xưa.

Ở xưởng thuỷ, lần đầu tiên nghề đóng thuyền lâu đời của người Việt được chuyên môn hoá: đội mộc đĩnh chuyên khai thác gỗ sao, kiền kiền để đóng thuyền, đội biệt nạp khai thác lá buông để đan buồm, các nậu khai thác dầu rái, trám, sơn…

Với sự giúp sức của người Pháp, các thợ đóng thuyền giàu kinh nghiệm và khéo léo người Việt đã có những bước tiến vượt bậc về kỹ thuật và trình độ tổ chức, nhiều loại tàu thuyền mới đã được đóng, ngoài các ghe bầu hải sư và thuyền chiến trước đây.

Năm 1792, xưởng hạ thuỷ năm chiếc thuyền hiệu: Hoàng Long, Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến, Huyền Hạc.

Năm 1793, chúa Nguyễn Ánh mua một chiến hạm cũ của châu Âu về tháo ra từng mảnh để lấy mẫu, đích thân chỉ đạo thợ theo đó mà chế tác ra các loại chiến hạm mới gọi là Tây dương dạng thuyền.

Thuỷ xưởng đã đóng được chín chiến hạm kiểu châu Âu mang tên Loan Phi, Ưng Phi, Long Ngư, Long Phượng, Long Hưng, Long Phi, Bằng Phi, Phụng Phi và Hùng Phi.

Lịch sử nội chiến Việt Nam của Tạ Chí Đại Trường dẫn lời tác giả Pháp Lelabousse ca ngợi: “Các xưởng thuỷ quân và quân cảng của ông làm người ngoại quốc ngạc nhiên và chắc sẽ khiến cả Âu châu thán phục nếu Âu châu có thể chứng giám.

Một bên người ta thấy các thứ súng tay, súng lớn đủ mọi cỡ, dụng cụ, giá súng, đạn… phần lớn đẹp đẽ chỉ nhường kiểu mới nhất thôi. Một bên, vô số các thuyền chiến, những chiến hạm đủ mọi cỡ, mọi hình thức rất chắc chắn.

Tất cả là công trình của ông hoàng ưa hoạt động này, được các sĩ quan người Pháp luôn luôn giúp đỡ vì nghệ thuật và công nghệ ở xứ này còn xa mới đuổi kịp châu Âu”.

Tác giả John Barrow ghi: “Một người Anh đã thấy ở Sài Gòn vào năm 1800 một hạm đội chiến thuyền của Nguyễn Ánh bao gồm 1.200 chiếc, do chính ông chỉ huy nhổ neo xuôi dòng theo một đội hình gồm ba đội trong tư thế sẵn sàng ứng chiến, rất có trật tự…”.

Hạm đội với những chiếc tàu chắc chắn, vũ khí dồi dào, hiệu suất cao, kỹ thuật và chiến thuật Tây phương này hẳn nhiên đã đóng góp phần rất lớn vào sự hình thành vương triều nhà Nguyễn, thống nhất Bắc – Nam và hơn thế nữa, chính thức xác lập chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa.

Một chiếc tàu nhỏ của thủy quân nhà Nguyễn - Ảnh tư liệu
Một chiếc tàu nhỏ của thuỷ quân nhà Nguyễn – Ảnh tư liệu

Đưa Long tinh kỳ đến Hoàng Sa

Cuộc chiến với nhà Tây Sơn chấm dứt, Nguyễn Ánh lên ngôi và lập kinh đô ở Phú Xuân (Huế – PV). Xưởng chu sư được giao cho quân thứ Gia Định quản lý, tiếp tục công việc đóng và sửa chữa tàu thuyền, nhịp độ giảm đi nhưng về kỹ thuật lại phát triển.

Xưởng bắt đầu đóng được tàu đồng, phỏng theo thiết kế những tàu đồng thuê của Bồ Đào Nha, nguyên là các tàu buôn được cải tạo vũ trang thành chiến hạm. Việc trao đổi, buôn bán với nước ngoài đã cung cấp nguồn kim loại dồi dào cho việc đóng tàu.

Đặc biệt hơn nữa, xưởng còn đóng và hạ thuỷ thành công tàu chạy bằng hơi nước không thua kém gì tàu nước ngoài, mở ra bước đột phá quan trọng đầu tiên trong hiện đại hoá kỹ thuật và công nghệ đóng tàu.

Đội hải thuyền ngày một lớn mạnh nối liền đường ra Bắc vào Nam, mở ra chân trời thênh thang về phía Biển Đông. Các đội dân binh Hoàng Sa, Bắc Hải được lập từ các đời chúa Nguyễn, khai thác sản vật tại Hoàng Sa bằng thuyền buồm.

Sau khi thành lập vương triều, vua Gia Long tiếp tục nhiệm vụ này và bằng hải đội mạnh mẽ của mình, mở rộng thêm những hoạt động khác như vãng thám, đo đạc, khảo sát thuỷ trình, vẽ bản đồ…

Năm 1816, một hải đội hùng hậu xuất phát và đưa vua đích thân đến đảo, làm lễ thượng Long tinh kỳ và cắm mốc chủ quyền Việt Nam.

Trong cuốn Thế giới, lịch sử và mô tả các dân tộc Nhật, Đông Dương, Ceylan (1850), tác giả M.A Dubois de Jancigny ghi chép tỉ mỉ sự kiện này:

“Chúng tôi quan sát thấy rằng từ 34 năm nay, quần đảo Paracels (người An Nam gọi là Cát Vàng), một mê hồn trận thật sự của các đảo nhỏ, các đá hoang dã, đã được người Nam kỳ (Cochinchine) chiếm hữu.

Chúng tôi không để ý liệu họ có tạo nên một công trình nào trên đó không (có thể nhằm bảo vệ nghề cá), nhưng chắc chắn rằng vua Gia Long đã gắn thêm vòng hoa này vào vương miện của người. Ngài đã thân chinh tới đó vào năm 1816 và long trọng kéo cờ của Nam kỳ lên đó”.

Giám mục Jean-Louis Taberd trong Ghi chép về địa lý Nam kỳ cũng xác nhận: “Paracels (bãi cát vàng), mặc dù quần đảo này buồn bã và không có gì ngoài các bãi đá, bãi, độ sâu hứa hẹn nhiều bất tiện, vua Gia Long cũng đã nghĩ tới việc mở rộng lãnh thổ bằng cách chiếm thêm vùng đảo này.

Năm 1816 ngài đã tới đây, long trọng cắm cờ, chính thức chiếm hữu các đảo đá, và không có ai tranh giành cả”.

Tới triều Minh Mạng, nhờ có nhiều tàu thuyền lớn mạnh, thuỷ quân chính thức được giao các nhiệm vụ tại Hoàng Sa, Trường Sa: vãng thám, kiểm tra, kiểm soát, khai thác hoá vật và hải sản, tổ chức thu thuế và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền, dựng bài gỗ để ghi nhớ, trồng cây cho tàu thuyền qua lại dễ nhận biết, ứng chiến với kẻ xâm phạm…

Các loại tàu thuyền sản xuất ở xưởng thuỷ Gia Định thời kỳ này như hải đạo thuyền, đa sách thuyền, thuyền mông đồng, lâu thuyền… và hình ảnh Biển Đông cùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được khắc họa rất rõ nét trên Cửu Đỉnh, bảo vật quốc gia, hiện đặt tại Thế miếu – Đại nội Huế.

_________

Kỳ tới: Từ xưởng thuỷ đến Ba Son

PHẠM VŨ