28/11/2024

Đối phó với viêm gan siêu vi C

Có người nghĩ bị viêm gan C thật đáng sợ, khi mắc bệnh có thể ảnh hưởng tính mạng. Tiếp sau bài viết “Viêm gan B có đáng lo?” (Tuổi Trẻ ngày 20-6), chúng tôi xin tiếp tục cung cấp những thông tin cần biết về bệnh viêm gan C nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn căn bệnh này.

 

Đối phó với viêm gan siêu vi C

Có người nghĩ bị viêm gan C thật đáng sợ, khi mắc bệnh có thể ảnh hưởng tính mạng. Tiếp sau bài viết “Viêm gan B có đáng lo?” (Tuổi Trẻ ngày 20-6), chúng tôi xin tiếp tục cung cấp những thông tin cần biết về bệnh viêm gan C nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn căn bệnh này.

Bệnh viêm gan C gọi đầy đủ là viêm gan siêu vi C gây ra do loại virút (nhỏ bé hơn cả vi trùng) được đặt tên là “virút viêm gan C” (viết tắt là HCV). Viêm gan C không nặng hơn viêm gan B vì B và C chỉ là tên riêng do các bác sĩ đặt cho hai loại virút này thôi chứ không mang ý nghĩa viêm gan C là giai đoạn sau của viêm gan B. Virút viêm gan C có sáu phân nhóm được đánh số từ 1-6, trong đó phân nhóm 1 nặng nhất vì dễ bị kháng thuốc và tái phát sau điều trị.

Bệnh viêm gan C gồm những thể bệnh nào?

* Viêm gan C cấp tính:

– Viêm gan C cấp không triệu chứng:

+ Xảy ra trong vòng 2-12 tuần sau khi bị lây nhiễm.

+ Chiếm 90% số trường hợp viêm gan C cấp.

+ Bệnh nhân không có các biểu hiện của viêm gan cấp như vàng mắt, vàng da, tiểu sậm màu, đau tức vùng gan bên (P).

– Viêm gan C cấp có triệu chứng:

+ Xảy ra trong vòng 4-8 tuần sau khi bị lây nhiễm virút.

+ Chỉ chiếm 10% số trường hợp viêm gan C cấp.

+ Bệnh nhân có các biểu hiện của viêm gan cấp như vàng mắt, vàng da, tiểu sậm màu, đau tức vùng gan bên (P) kèm theo các dấu hiệu giống cảm cúm như mệt mỏi, sốt nhẹ, mỏi cơ, ăn không ngon.

+ Xét nghiệm có men gan và chất bilirubine tăng cao.

– Sau giai đoạn viêm gan C cấp, có đến 55-90% số trường hợp virút vẫn tồn tại kéo dài (trên sáu tháng) trong máu và gan gây bệnh nhiễm viêm gan C mãn tính.

* Viêm gan C mãn:

– Viêm gan C mãn thể yên lặng:

+ Chiếm 60-90% số trường hợp nhiễm viêm gan C mãn.

+ Thường không có triệu chứng hoặc chủ yếu tình cờ phát hiện khi kiểm tra sức khỏe tổng quát, khi đi hiến máu.

+ Ở thể này virút viêm gan C vẫn sinh sản và âm thầm tấn công gan ở mức độ rất thấp nên gan vẫn còn khá tốt, siêu âm gan bình thường, gan vẫn còn mềm mại, men gan và chức năng gan còn khá tốt.

+ Thể này tương đối nhẹ và ít diễn tiến thành xơ gan. Tuy nhiên, thể này trong suốt thời gian theo dõi vẫn có thể diễn tiến thành thể tấn công.

– Viêm gan C mãn thể tấn công:

+ Chiếm 10-40% số trường hợp nhiễm viêm gan C mãn.

+ Bệnh nhân thường có những triệu chứng như mệt mỏi, đau tức vùng gan, ăn kém, ngứa, da sậm màu hơn so với trước đây, xuất hiện các nốt đỏ ở da ngực, da lưng, gan to. Tuy nhiên cũng có một số bệnh nhân không có triệu chứng, tình cờ phát hiện khi kiểm tra sức khỏe.

+ Ở thể này virút vẫn sinh sản với các mức độ khác nhau và tấn công gan khá nhiều nên gây ra những hư hại trong gan làm gan to ra, siêu âm gan thấy gan bắt đầu to ra và không còn mềm mại nữa, men gan và chức năng gan bắt đầu thay đổi.

+ Thể này dễ diễn tiến thành xơ gan nếu không điều trị kịp thời.

– Những yếu tố khiến thể yên lặng dễ diễn tiến thành thể tấn công: nam giới hoặc phụ nữ mãn kinh; hút thuốc lá; uống bia rượu; béo phì, nhất là béo bụng, tăng mỡ máu;  ăn nhiều chất ngọt; đái tháo đường; dư chất sắt trong cơ thể; đồng nhiễm virút viêm gan B, HIV/AIDS;  nhiễm virút viêm gan C phân nhóm 1…

Điều trị

Việc điều trị làm tiêu diệt hoàn toàn virút giúp gan không bị tấn công và dần dần hồi phục. Phác đồ điều trị thường kéo dài từ sáu tháng đến một năm. Tuy nhiên cần lưu ý bệnh dễ bị tái phát sau sáu tháng đến một năm tính từ lúc kết thúc phác đồ điều trị. Nguyên nhân thường do:

+ Nhiễm virút C phân nhóm 1.

+ Đề kháng kém: tuổi già, mắc bệnh đái tháo đường, nhiễm HIV, bị bệnh lao kèm theo.

+ Dùng các thuốc ức chế miễn dịch của cơ thể: hóa trị ung thư, dùng thuốc có chứa chất corticoid.

– Phác đồ điều trị:

+ Phác đồ cổ điển gồm một loại thuốc chích kích hoạt hệ miễn dịch của cơ thể chúng ta tự tiêu diệt virút kết hợp với thuốc uống ức chế virút.

+ Phác đồ bộ ba mới nhất với sự phối hợp giữa phác đồ cổ điển với các thuốc mới nhất có tác dụng tiêu diệt trực tiếp virút giúp nâng tỉ lệ thành công, không bị tái phát sau ngưng thuốc lên đến 85% đối với dòng virút có độc lực cao (phân nhóm 1), kể cả những trường hợp bị tái phát.

Bệnh nhân bị viêm gan C mãn cần làm gì?

– Không nên quá lo lắng, vẫn sinh hoạt và làm việc bình thường.

– Nên đi khám bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa – gan mật để được làm thêm một số xét nghiệm chuyên sâu nhằm xác định ở thể yên lặng hay thể tấn công.

– Nếu ở thể tấn công cần được điều trị thuốc thích hợp ngay để chặn diễn tiến của bệnh và bảo vệ lá gan chúng ta.

– Nếu ở thể yên lặng cần theo dõi định kỳ mỗi 3-6 tháng. Việc điều trị tích cực ở thể này có thể được bác sĩ cân nhắc tùy trường hợp cụ thể, vì ở thể này nguy cơ diễn tiến thành xơ gan còn khá thấp.

– Hạn chế các yếu tố làm bệnh dễ diễn tiến sang xơ gan: bỏ rượu bia, không tự ý uống các loại thuốc giảm đau, thuốc kháng sinh và thuốc không rõ nguồn gốc. Tập thể dục nhẹ nhàng đều đặn, tránh béo phì. Hạn chế ăn nhiều chất béo, chất bột đường. Hạn chế thức ăn chứa nhiều chất sắt như thịt bò, lòng đỏ trứng, rau có màu xanh đậm vì dễ gây ứ đọng chất sắt trong cơ thể và trong gan.

Phòng bệnh

– Bệnh chưa có thuốc chủng ngừa.

– Vì bệnh chỉ lây lan theo máu qua các vết trầy xước, rách da nên cần chú ý:

+ Tình dục an toàn.

+ Không dùng chung các vật sắc nhọn như dao lam, dao cạo râu, dụng cụ làm móng tay móng chân, kim châm cứu…

Nhiễm viêm gan C có nên mang thai?

– Tư vấn với BS chuyên khoa tiêu hóa – gan mật để được xác định ở thể yên lặng hay thể tấn công.

– Nên điều trị đủ phác đồ rồi mới có thai, nhất là ở thể tấn công.

– Theo dõi với BS chuyên khoa tiêu hóa – gan mật trong thời gian mang thai.

– Vẫn cho trẻ bú mẹ bình thường trừ khi đầu vú mẹ bị nứt nẻ, lở loét dễ chảy máu.

 

 

Tỉ lệ điều trị thành công, không tái phát tùy thuộc phân nhóm virút bị nhiễm:

+ Nhiễm virút nhóm 1: thành công 45%.

+ Nếu nhiễm virút nhóm 2-3: thành công 80-85%.

+ Nếu nhiễm virút nhóm 4-5-6: thành công 60- 70%.

Nếu bị tái phát sau điều trị, bệnh nhân cũng không nên quá lo lắng vì khả năng diễn tiến thành xơ gan đã giảm rất nhiều dù chưa có điều kiện điều trị trở lại. Hiện tại với các loại thuốc uống tiêu diệt siêu vi trực tiếp phối hợp với phác đồ cổ điển, tỉ lệ thành công khi điều trị trở lại cũng khá tốt và ít bị tái phát.

 

 

BS TRẦN NGỌC LƯU PHƯƠNG 
(Bệnh viện Nguyễn Tri Phương)