Hoàng Hậu Nam Phương
Nhắc đến Hoàng hậu Nam Phương người ta nhớ đến một nhan sắc tuyệt vời. Người ta có thể chê trách đời công – đời tư – chuyện nầy chuyện nọ của Cựu hoàng Bảo Đại nhưng không ai tiếc cho tư cách của Hoàng hậu Nam Phương một điều gì.
Hoàng Hậu Nam Phương
Mối nhân duyên với cựu hoàng Bảo Đại và thân phận một hoàng hậu lưu vong
Nguyễn Hữu Thị Lan khi học bên Pháp
Mười năm học tập ở Pháp, năm 1932 vua Bảo Đại “hồi loan”. Bảo Đại (sinh 1913) là một ông vua đẹp trai, có Tây học, ham thích thể thao, săn bắn và âm nhạc, là hình ảnh lý tưởng của con gái Việt Nam, đặc biệt là con gái Huế thời bấy giờ và mãi nhiều năm về sau. Nhiều nhà quyền quý, có con gái đều nhắm đến vị Hoàng đế trẻ tuổi nầy.
1. Bà phải được tấn phong hoàng hậu ngay trong ngày làm lễ cưới;
2. Được giữ nguyên đạo Thiên Chúa, các con sinh ra đều được rửa tội và được giữ đạo.
3. Bảo Đại được tự do giữ đạo cũ là Phật Giáo.
Việc phong hoàng hậu cho Bà Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải chủ trương “Tứ bất lập” của triều Nguyễn (từ thời Minh Mạng). Nhà Nguyễn không lập hoàng hậu, không lập thái tử, không đặt chức tể tướng, không lấy đỗ Trạng Nguyên. Việc hoàng hậu nước Nam và các hoàng tử, công chúa của Bà được rửa tội và theo đạo Thiên Chúa là một thách thức đối với triều đình Nguyễn vốn sùng đạo Nho. Nếu xét kỹ hơn, trong lịch sử, đạo Thiên Chúa từng là thù địch của dòng họ Nguyễn. Xưa nay ông hoàng làm lễ nạp phi, bà chúa hạ giá cho con cháu các đại thần khi có quyết định của nhà vua không ai phải xin phép ai nữa cả. Thế mà bây giờ Bảo Đại muốn lấy Nguyễn Hữu Thị Lan thì phải xin phép Giáo hoàng ở tận bên La mã. Thật là một chuyện rắc rối.
Người ta kể lại rằng: Đáng lẽ Nguyễn Hữu Thị Lan còn đòi thêm điều nầy: Bà “là người có đạo, chỉ một vợ một chồng, chứ không được như các vua Nguyễn có đến 9 bậc phi tần”.Nhưng Bà đã không đưa điều kiện đó ra vì trong một buổi bàn về chuyện nạp phi, Bảo Đại đã nói công khai với đình thần rằng ông “chống lại tục đa thê của vua chúa Việt Nam”.
Nhắc đến Hoàng hậu Nam Phương người ta nhớ đến một nhan sắc tuyệt vời. Cách phục sức của bà giản dị nhưng mẫu mực. Hình ảnh bà mặc triều phục đội mũ miện hoàng hậu, mặc áo rộng đội khăn vành dành riêng cho hoàng hậu, mặc quốc phục áo dài, để đầu trần hay vấn khăn đều là “mẫu nghi” của phụ nữ Việt Nam thế kỷ qua.
Những điều kiện bà Nguyễn Hữu Thị Lan đưa ra rất khắt khe, những người trung thành với nhà Nguyễn đã nghĩ “Bảo Đại khó lòng thỏa mãn được”. Nhưng họ không hiểu rằng Bảo Đại là một sản phẩm đào tạo ở bên Tây, những ràng buộc của lễ giáo cũ làm sao ngăn cản được quyết tâm của ông. Họ càng không hiểu nổi việc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan do thực dân Pháp đặt định chứ không có trời đất nào định cả. Bảo Đại đã đồng ý, người Pháp tác hợp rồi, có triều đình bù nhìn nào, lễ giáo nào ngăn cản được họ nữa?
Nguyễn Hữu Thị Lan trong ngày nhận ngôi vị hoàng hậu với cái tên Nam Phương
Đám cưới của Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan được tổ chức vào ngày 20.3.1934. Sau đó Bảo Đại tấn phong ngay cho cô Lan làm Hoàng hậu với cái tên Nam Phương[2].
Để phù hợp với nếp sống theo phương Tây, trước khi làm lễ cưới, Bảo Đại đã cho sửa nội thất điện Kiến Trung cổ kính thành một cung điện tân tiến với đầy đủ tiện nghi của người châu Âu. Nhà có nhiều phòng ngủ, phòng ăn, phòng làm việc. Người phục vụ cũng khác với các triều trước. Không có thái giám, ngoài nam nữ người Việt, nhà vua còn tuyển dụng cả người Pháp, đặc biệt trong lãnh vực chăm sóc các con vua.
Thông điệp của cựu hoàng hậu
Với tư cách hoàng hậu, Nam Phương đã giúp cho vua Bảo Đại trong các hoạt động ngoại giao, đón tiếp các quốc khách, giao thiệp với Pháp. Nam Phương là vị Đệ nhất phu nhân Việt Nam đầu tiên được giao phụ trách các công việc xã hội, làm khuyến học, khen thưởng học sinh giỏi, giúp đỡ người nghèo, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội.
Hoàng hậu Nam Phương có với Bảo Đại 5 người con. Hai hoàng tử và ba công chúa.
Hưởng ứng Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, vào ngày 30.8.1945, vua Bảo Đại thoái vị và trao ấn kiếm cho ông Trần Huy Liệu - đại diện của Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 9 năm 1945, ông ra Hà Nội nhận chức “Cố vấn tối cao” trong chính phủ. Hoàng hậu Nam Phương và 5 người con rời điện Kiến trong Đại Nội, về sống với bà Từ Cung ở Cung An Định bên bờ sông An Cựu. Hoàng hậu được mời tham gia nhiều hoạt động ủng hộ Cách mạng như tham gia “Tuần lễ vàng” quyên góp vàng bạc làm chiến phí chuẩn bị đương đầu với sự trở lại Việt Nam của thực dân Pháp.
Bản lược dịch Việt ngữ:
“Thông điệp của Cựu Hoàng hậu Nam Phương
“Bà Vĩnh Thụy – Cựu Hoàng hậu Nam Phương, phu nhân của Cựu Hoàng đế Bảo Đại, ông hoàng Vĩnh Thụy, xin gởi thông điệp sau đây đến bạn bè châu Âu và thế giới.
Nước Việt Nam đã thoát khỏi ách thống trị đế quốc Pháp và Nhật Bản.
Khi thoái vị, phu quân tôi, Cựu hoàng đế Bảo Đại, đã tuyên bố: “Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Bản thân tôi, cũng đã từ bỏ không thương tiếc, những đặc quyền của một bà hoàng hậu, đoàn kết cùng chị em phụ nữ để giúp gìn giữ nền độc lập thiêng liêng của nước nhà.
Trong giờ phút nầy máu đang chảy trên đất Nam bộ – cái nôi của thời thơ ấu của tôi. Biết bao sinh linh đã bị thiêu đốt bởi lòng tham đầy tội ác của một số thực dân Pháp được hậu thuẫn bởi một số quân Anh hành động đi ngược lại chủ trương của Đồng Minh mà Pháp là một thành viên.
Tôi kêu gọi tất cả những ai đã đau khổ vì những tội ác gây nên bởi cuộc Đại chiến vừa qua hãy hành động để chấm dứt sự hung bạo không có tên gọi đang hoành hành trên đất nước tôi.
Thay mặt cho 13 triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả những thân hữu của tôi, bạn bè của nước Việt Nam, hãy bênh vực cho Tự do.
Đòi hỏi các chính phủ của các bạn can thiệp nhằm thiết lập một nền hòa bình chân chính, công minh, là các bạn đã tuân theo cái trách nhiệm khẩn cấp của con người, và đón nhận lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào chúng tôi.
Vì hoàn cảnh đất nước chiến tranh và sự đổ vỡ của gia đình, cuối đời bà giấu mình trong trang trại Domain de la Perche làng Chabrignac thuộc hạt Corrèze, vùng Limousin ở miền trung tây nước Pháp. Sau năm năm làm dân ngụ cư làng Chabrignac bà đã âm thầm từ giã cuộc đời ở đó (9.1963).
Lăng mộ của bà giản dị như ngôi mộ của một thường dân. Bà qua đời ở một nơi quá xa đất nước, nên không mấy người Việt Nam biết rõ phần đời sau của bà. Đầu năm 2.000, trên đường đi tìm dấu tích vua Hàm Nghi ở nước ngoài tôi hân hạnh được đến viếng mộ và thắp hương cho bà.
Trên ngôi mộ đơn sơ dựng một tấm bia đá, mặt trước tấm bia ghi dòng chữ Hán:
“Đại Nam Nam Phương Hoàng Hậu chi lăng” (Dịch nghĩa: Lăng của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam).
Mặt sau ghi dòng chữ Pháp:
“Ici repose l’impératrice d’Annam née Marie Thérèse Nguyen Huu Thi Lan” - (Dịch nghĩa: Đây là nơi an nghỉ của Hoàng hậu An Nam nhũ danh Ma–ri Tê–re-dờ Nguyễn Hữu Thị Lan).
Tháng 6.2010, báo điện tử của Pháp (lepopulaire.fr) đăng bài “Bà Hoàng hậu đẹp vẫn ngự trong tim” (La belle impératrice demeure dans les coeurs) thể hiện tình cảm của người Pháp dành cho bà. Ông Lucien Boudy – một cựu xã trưởng Chabrignac, cho tác giả bài báo trên biết Hoàng hậu Nam Phương “Là một mệnh phụ phu nhân hết sức đẹp đẽ, thân thiện rộng rãi với dân làng. Bà cũng rất nhân đạo và yêu thương với người hầu kẻ hạ trong nhà” (…est une dame très élégante, mais surtout très généreuse avec la population. Elle était aussi très humaine et sympathique avec les salariés du domaine). Chính vì quý mến ấy mà khu trang trại Domaine de la Perche và ngôi lăng khiêm tốn của bà đã được tôn tạo đưa vào phục vụ du lịch.
Dù chưa có nhiều người đến Chabrignac viếng thăm lăng mộ của bà, nhưng trong lòng người Việt Nam, phụ nữ Việt Nam luôn có hình ảnh đẹp của bà. Với lòng ngưỡng mộ sẵn có, không sớm thì muộn hài cốt của bà cũng sẽ có dịp được cải táng về quê hương.