Nữ phóng viên đầu tiên
Khoảng giữa năm 1931, làng báo Sài Gòn xuất hiện một nữ phóng viên chính hiệu ở tuần báo Phụ Nữ Tân Văn. Nữ phóng viên này là ai vậy?
150 NĂM BÁO CHÍ QUỐC NGỮ VÀ LÀNG BÁO SÀI GÒN – KỲ 7:
Nữ phóng viên đầu tiên
Khoảng giữa năm 1931, làng báo Sài Gòn xuất hiện một nữ phóng viên chính hiệu ở tuần báo Phụ Nữ Tân Văn. Nữ phóng viên này là ai vậy?
Manh Manh nữ sĩ – Ảnh tư liệu |
Nói “nữ phóng viên chính hiệu” là bởi “trước đó ở Hà Nội cũng như Sài Gòn người giữ mục phụ nữ hay viết bài về phụ nữ, mặc dù ký tên là “Thị nọ Thị kia” nhưng đều là ký giả có râu” (Ngoạ Long – 10 năm làng báo Sài Gòn, Đuốc Nhà Nam số ra ngày 17-10-1969).
Đó là Manh Manh nữ sĩ
Manh Manh nữ sĩ tên thật là Nguyễn Thị Kiêm (1914 – 2005), con ông huyện Nguyễn Đình Trị quê quán ở Gò Công. Ông Trị từng là chủ huyện Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, nghị viên hội đồng thành phố chung “sổ” (liên danh tranh cử) với giáo sư Nguyễn Văn Bá, chủ bút báo Công Luận thời Diệp Văn Kỳ, Thần Chung. Ông Trị cũng là “bầu” của đội bóng đá Ngôi Sao Xanh và sau đó đội Ngôi Sao Gia Định lừng lẫy một thời.
Bà học Trường Nữ trung học bản xứ (Collège des Jeune Filles Annamites de Saigon, trường áo tím, Gia Long, nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đến tú tài rồi bước vào nghề báo. Ban đầu bà chỉ là phóng viên thường, viết các mục nhỏ với bút hiệu YM, Nguyễn Văn MYM. Sau khi Phan Khôi đăng bài thơ Tình già (Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932) thì tên tuổi bà sáng lên qua bút danh Nguyễn Thị Manh Manh hoặc tên thật khi ủng hộ Thơ mới và cổ vũ cho nữ quyền.
Giữa năm 1931, sau sáu tháng bị đình bản, có lẽ vì loạt bài viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái và bài tố cáo ông phủ Lâm Thao Đỗ Kim Ngọc ăn hối lộ, Phụ Nữ Tân Văn tái bản và đẩy mạnh chủ trương đấu tranh cho nữ quyền, cổ vũ lớp trẻ rèn luyện chữ quốc ngữ.
Bà Kiêm xuất hiện trong thời kỳ này khi mới 17 tuổi. Có lẽ vì còn quá trẻ nên bà chỉ làm phóng viên bình thường, thỉnh thoảng viết một bài về nữ quyền. Sau đó, khi mạnh mẽ ủng hộ Thơ mới bà bắt đầu nổi tiếng với những cuộc diễn thuyết, những bài viết về bình đẳng giới và thơ mới. Không chỉ ở Sài Gòn, bà còn đi diễn thuyết ở Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định… Thậm chí báo Phụ Nữ Tân Văn còn mở hẳn mục Thơ mới bên cạnh mục Văn uyển đăng các loại thơ cũ.
Trong số báo 228 ra ngày 14-12-1933, bà viết bài trả lời ông Hoàng Tâm báo Đuốc Nhà Nam: “Vì có nhiều vấn đề đáng quan tâm hơn là thơ nên chúng tôi hoãn lại việc đăng lên báo. Nay ông có nhắc đến sửa soạn ăn mừng thắng trận của ông, tôi xin soạn một bài thơ mới của tôi viết cách nay hai tháng nay đăng lên báo. Nếu ông có dư thời giờ và báo Đuốc Nhà Nam có thiếu bài, ông cứ cho tôi hay, tôi sẽ đưa mấy bài Thơ mới cho ông đăng lên báo Đuốc Nhà Nam và phê bình luôn thể”.
Rất đông người đến dự buổi diễn thuyết của Manh Manh nữ sĩ – Ảnh: Khánh Ký Saigon |
Diễn thuyết vì nữ quyền
Còn cuộc diễn thuyết của bà ở Hội Khuyến học Sài Gòn (SAMIPIC, tức Hội Nam kỳ trí đức thể dục, nay là số 606 Trần Hưng Đạo, quận 5), Hoài Thanh – Hoài Chân ghi nhận trong Thi nhân Việt Nam: “Từ hai tháng trước, hôm 26-7-1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn Hội Khuyến học Sài Gòn thành lập đến bây giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết có đông người nghe như thế” (Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn Học, Hà Nội 1988, trang 25).
Trong buổi diễn thuyết ấy, bà nói: “Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị đẹt mất (không lớn lên nổi) thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối thơ xưa nên gọi là Thơ mới”. Và “chỉ mong lối Thơ mới được nhiều người để ý đến và nó có thể trở nên một lối thơ thông dụng để tả một cách thiết thực, rõ ràng những thi cảm của các nhà thi sĩ”. Thơ mới với sự cổ vũ của Nguyễn Thị Kiêm đã tạo ra một cuộc tranh luận dài trên báo chí cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Không chỉ nói, bà còn sáng tác Thơ mới, những bài Hai cô thiếu nữ, Viếng phòng vắng… để lại ấn tượng mạnh mãi về sau.
Về nữ quyền, trong buổi nói chuyện ở Hội chợ phụ nữ ngày 26-5-1932 tổ chức tại vườn Tao Đàn, bà nói: “Đối với những người như chúng tôi đây, ngu mà muốn học cho khôn, dốt mà muốn học cho giỏi, không biết mỹ thuật mà biết yêu mến mỹ thuật, không biết văn chương mà muốn cảm mến văn chương thì Nữ lưu học hội thiệt là cần ích cho chúng tôi lắm”.
Tại Huế, đêm 3-5-1934, trong bài nói chuyện “Dư luận nam giới với phụ nữ tân tiến”, bà nói: “Chủ nghĩa phụ nữ là làm thế nào để giải phóng phụ nữ khỏi những lễ giáo hủ bại, binh vực quyền lợi cho phụ nữ, kiếm những cách sinh hoạt cho chị em để sự sống của mình được hoàn toàn hơn, và nâng cao trình độ trí thức của mình”.
Làm vậy là bởi khi ấy vẫn còn quan niệm: “Đến thế kỷ thứ 20 đàn bà An Nam lại có nảy sanh một số người quái gở! Họ vượt ra khỏi buồng the, chẳng theo lễ giáo cũ: họ cũng đi học đi làm như đàn ông. Họ tự do đi, đứng, nói cười, ra giữa công chúng vợt banh, đá cầu, lập hội hè, đến chỗ đông mà tranh cãi”. Tại hội quán Khai Trí Tiến Đức Hà Nội tối 8-9-1934 bà nói: “Đàn bà tân tiến là đàn bà mới, biết đi theo trào lưu xã hội, theo thời đại văn minh hiện chừ” và người đàn bà ấy chỉ “xin ngang hàng với đàn ông, xin được đồng một phẩm giá làm người trong xã hội”.
Buổi nói chuyện tại Hà Nội của bà được báo chí Hà Nội ghi nhận: “Tối hôm thứ bảy vừa rồi, cái lối cô Kiêm lên diễn đàn, công chúng đã ồ ạt kéo đến hội quán phố Hàng Trống như nước chảy, lũ lượt bọn năm bọn ba, ông có, bà có, trai có, gái có, đến nỗi mấy bác nhà quê đi đường ngơ ngác hỏi nhau: họ đi xem hội gì đông thế?” (báo Đông Pháp). Tờ Ngọ Báo viết: “Trong nơi diễn đàn, ngày thường lỏng chỏng mấy bàn tổ tôm điếm, coi rộng thênh thang, hôm nay đà gấp đôi thế cũng chẳng đủ chỗ cho công chúng đứng, ngồi. Trên gác, dưới nhà, không một chỗ hở…”(Phụ Nữ Tân Văn số 259 ngày 20-9-1934).
Sự thành công của bà Nguyễn Thị Kiêm đã tạo ra một phong trào phụ nữ mới hết sức sôi nổi, thúc đẩy các bà tham gia nhiều hoạt động xã hội ở Sài Gòn, Hà Nội.
Đáng tiếc, cuối năm 1934, tờ Phụ Nữ Tân Văn đình bản, bà Kiêm mất chỗ dựa, phong trào cổ vũ Thơ mới và đấu tranh cho nữ quyền của bà bị xẹp xuống. Và bà trở thành một nhà báo bình thường cộng tác với một số báo đương thời. Sở trường của bà là phỏng vấn. Tuy vậy, bà cũng viết nhiều bài phê bình, ghi chép…
Người thấp lùn, bộ tướng núc ních, mặt má miếng bầu, môi nhọn như mỏ chim… đôi mắt sáng ngời, thông minh, ăn nói mau lẹ, gọn gàng, duyên dáng. Đó là nhận xét của nhà báo Ngoạ Long. Với bộ tướng ấy, có thể nói bà Kiêm là “phụ nữ trời bắt xấu”. Tại buổi nói chuyện ở Hội Khuyến học Sài Gòn, để cử toạ trong phòng nhìn thấy diễn giả, bà phải… đứng trên bàn để nói! Vì vậy, trong làng báo Sài Gòn thập niên 1930, ai cũng coi bà như một đồng nghiệp nam.
Chỉ có một người nhìn bà là “phụ nữ” đó là nhà báo Lư Khê Trương Văn Em, người sau này gá nghĩa với bà năm 1937. Nhưng họ sống với nhau không lâu. Sau khi đứa con đầu lòng mất và bà không thể có con được nữa, hai người thoả thuận chia tay. Năm 1950, bà lấy chồng người Pháp và qua Pháp ở cho đến ngày mất.
Đối với văn học Việt Nam bà cũng có những đóng góp đáng kể, ít ra trong thể Thơ mới ở thập niên 1930. Thế nhưng hầu hết những ghi nhận về văn thơ 1930 – 1945 đều lãng quên bà!