23/12/2024

Bài 1: Văn hoá là gì? Hội nhập Văn hoá là gì?

Một trong những nguyên nhân chính yếu khiến Tin Mừng chưa thể phổ biến rộng rãi cho các dân tộc châu Á đó là những người rao giảng Tin Mừng đã không để ý nhiều đến nền văn hoá của mỗi dân tộc, biến Kitô giáo thành một thứ xa lạ với đời sống thường ngày của con người.

 LỚP HỘI NHẬP VĂN HOÁ

 

Bài 1:  Văn hoá là gì? Hội nhập Văn hoá là gì?

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

 

 

Nhập đề

Những lời cuối cùng của Đức Giêsu Phục Sinh trước khi lên trời vẫn vang vọng như thúc giục chúng ta là những môn đệ của Người: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20). Sứ mạng ra đi gặp gỡ những con người thuộc đủ mọi dân tộc để chia sẻ cho họ Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô là sứ mạng hàng đầu của các Kitô hữu, đặc biệt là của những người đã tận hiến cho Đức Giêsu vì Nước Trời.

Tuy nhiên, dù châu Á là nơi khai sinh của Đức Giêsu và cũng là nơi Đức Giêsu lập Giáo Hội, số tín hữu Công giáo hiện nay cũng chỉ đạt được 136.802.000 tín hữu trong số 4.283.035.000 người trong suốt hơn 2000 năm truyền giảng Tin Mừng trên tổng dân số thế giới: 7.093.798.000 người (x. Catholic Almanac 2016, NXB. Our Sunday Visitor, tr. 331). Có người đã nói đến sự thất bại, có kẻ nói đến sự bất lực của các môn đệ Đức Giêsu và tính kém hiệu quả của Tin Mừng. Tuy nhiên, những con số thống kê không thể nào nói lên được thực tại nhiệm mầu của Đức tin Công giáo, càng không phải là thước đo lòng đạo đức hay sự thành bại của việc truyền giáo. Chúng chỉ là những dấu chỉ nhắc nhở ta suy nghĩ sâu xa hơn về những vấn đề.

Để cho việc loan báo Tin Mừng có hiệu quả hơn, Đức Thánh Cha (ĐTC) Gioan Phaolô II đã nói đến văn hoá và việc hội nhập văn hoá trong toàn bộ chương IV của Tông huấn Giáo Hội tại châu Á (GHCA) từ số 19 đến 23. Ngài nhắc đến từ văn hoá 129 lần ở các số 1, 2, 4, 5, 6, 7, 9, 14, 17, 20, 21, 22, 23 và 48 (riêng chương IV có 5 số đã nhắc tới 45 lần) và từ hội nhập văn hoá 21 lần ở các số 9, 20, 21, 22, 23, 27 và 48. Điều đó cho ta thấy ĐTC quan tâm đến văn hoá và sự hội nhập văn hoá (HNVH) như thế nào trong tông huấn này.

Thật vậy, một trong những nguyên nhân chính yếu khiến Tin Mừng chưa thể phổ biến rộng rãi cho các dân tộc châu Á đó là những người rao giảng Tin Mừng đã không để ý nhiều đến nền văn hoá của mỗi dân tộc, biến Kitô giáo thành một thứ xa lạ với đời sống thường ngày của con người. Đức Hồng y Ratzinger, nay là Đức Thánh cha Bênêđíctô XVI nghỉ hưu, đã giúp chúng ta hiểu rằng: “Đức tin tự nó là văn hoá. Không có đức tin trần trụi, cũng chẳng có văn hoá thuần tuý” (x. J. Ratzinger, Niềm tin vào Đức Kitô trước sự thách đố của các nền văn hoá, diễn đàn ở HĐGM Á Châu, từ ngày 3 đến 5/3/1993, Documentation Catholique, số ra ngày 16-7-1995; x. BTHT 5/1999, tr 169-206) vì chỉ có con người thực tế, sống trong một nền văn hoá nhất định và chính con người ấy đang tin và sống với niềm tin của mình. Vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giới thiệu giải pháp cần thiết là phải làm sao cho đức tin Kitô Giáo hội nhập vào văn hoá và mọi sinh hoạt của con người trong xã hội. Hội nhập văn hoá là công việc khẩn thiết cho mọi thành phần Giáo Hội ở châu Á hiện nay (GHCA, số 21 và 22).

Vì thế, người tín hữu, nhất là các linh mục và tu sĩ, đặc biệt quan tâm đến vấn đề hội nhập văn hoá qua việc học hỏi tông huấn GHCA của ĐTC. Đây là một vấn đề cấp bách và quan trọng nhưng chúng ta lại chưa có những chuyên viên nghiên cứu kỹ lưỡng. Công việc đầu tiên chúng ta cần làm là xác định ý nghĩa và nội dung của từ văn hoá, hội nhập văn hoá.

1. Văn hoá

Từ văn hoá có nhiều nghĩa. Nó được dùng để chỉ những khái niệm bao hàm nhiều ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, trong văn chương Trung Hoa cổ, người ta thấy có tới 160 nghĩa (x. Phùng Quý Nhâm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, giáo trình trường Đại học Sư phạm TP. HCM., 1996, tr.5). Sách Chu Dịch có viết: “Quan hồ nhân văn, dĩ hoá thành thiên hạ” (xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ); hoặc “Văn hoá nội tập, vũ công ngoại tu” (văn hoá làm cho bên trong hoà thuận, vũ công sửa sang cái bên ngoài). Nói chung, văn là vẻ đẹp do mầu sắc tạo ra, là hình thức đẹp trong lễ, nhạc, trong cách cai trị, trong ngôn ngữ, cách cư xử…; hoá có nghĩa là dạy dỗ, làm cho hình thành.

1.1. Trong Từ điển Tiếng Việt 2013,( của Viện Ngôn Ngữ Học, NXB Đà Nẵng-Vietlex), ta thấy có 5 ý nghĩa sau đây:

– Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Ví dụ: kho tàng văn hoá dân tộc, văn hoá phương Đông

– Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát). Vd: phát triển văn hoá, công tác văn hoá

– Tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát). Vd: học văn hoá, trình độ văn hoá

– Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Vd: sống có văn hoá, ăn nói thiếu văn hoá,…

– Nền văn hoá của một thời kỳ lịch sử cổ xưa qua các di vật tìm được. Vd: văn hoá Đông Sơn,…

Trong tông huấn GHCA cũng như trong giảng khoá này, chúng ta nhấn mạnh nhiều đến ý nghĩa đầu tiên với khái niệm cơ bản Văn hoá là tổng thể các giá trị. Tuy nhiên, 4 ý nghĩa sau cũng được dùng lẫn lộn trong các văn bản, nhất là trong các số 20-23 của Tông huấn.

1.2. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, mục từ Văn Hoá  được trình bày rất nhiều và được hiểu theo nghĩa nhân văn rất rộng. Ta có thể nhắc đến định nghĩa của ông F. Mayor đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá tại Venise năm 1970 : “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động”. Định nghĩa của ông E. B. Taylor, nhà xã hội học văn hoá Anh, cũng mô tả rõ hơn: “Văn hoá hoặc văn minh là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kỳ năng lục, thói quen nào khác mà con người cần có với tư cách là một thành viên của xã hội” (Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB TĐBKVN, 2005).

Văn hoá của một dân tộc hiểu theo nghĩa căn bản nhất là toàn bộ những cái qua đó một dân tộc tự biểu hiện mình, tự nhận biết mình và giúp các dân tộc khác nhận biết mình. Như thế, văn hoá có thể được hiểu là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nước, một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước (Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB TĐBKVN, 2005).

1.3. Quan niệm hiện nay. Theo Đông Phương, “văn” đối với “võ”. Văn có nghĩa là “vẻ đẹp”. “Văn hoá” có nghĩa là làm cho trở thành đẹp, thành có giá trị. Văn hoá chỉ chứa cái đẹp, cái giá trị. Các giá trị văn hoá theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất thí dụ: nhà ở 3 gian, 2 chái, trầu cau), giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần như đình làng, các lễ hội,…). Các giá trị phải do con người sáng tạo ra (phân biệt với giá trị tự nhiên như các khoáng sản trong lòng đất). Sự sáng tạo đó là cả một quá trình lịch sử liên tục, tích luỹ qua nhiều thế hệ trong các hoạt động thực tiễn của con người (thí dụ: Văn hoá Đông Sơn trong giai đoạn lịch sử cách nay khoảng 2.700 năm ở vịnh Bắc Bộ thời các vua Hùng). Những giá trị đó phải làm thành một hệ thống chặt chẽ. Vì thế, người ta có thể định nghĩa văn hoá theo nghĩa chuyên môn như sau: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua các quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” (x. Trần Ngọc Thêm, Tìm hiểu về Bản sắc Văn hoá Việt Nam, NXB Tổng Hợp Tp. HCM, 2004, tr. 20-27).

1.4. Công đồng Vatincan II, trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 53, đã xác định 5 ý nghĩa của từ “văn hoá” như trong Từ điển Tiếng Việt, nhưng đã mở rộng hơn nhiều để thấy giá trị đó là của chung toàn thể nhân loại: “Đặc điểm của một nhân vị là chỉ đạt tới nhân tính đích thực và trọn vẹn nhờ văn hoá, nghĩa là nhờ việc trau dồi những ưu phẩm và giá trị của bản tính. Vì vậy, mỗi khi đề cập đến cuộc sống nhân loại, bản tính và văn hoá liên kết với nhau hết sức chặt chẽ”.

Theo nghĩa tổng quát, từ “văn hoá” bao gồm tất cả những gì con người dùng để trau dồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả trái đất bằng tri thức và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở thành nhân đạo hơn, nhờ tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau hết, diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của các thời đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn”.

Vì vậy, văn hoá nhân loại thiết yếu mang tính cách lịch sử và xã hội, và từ “văn hoá” thường mặc thêm một ý nghĩa xã hội học cũng như nhân chủng học. Chính vì ý nghĩa này mà người ta nói đến sự đa tạp của các nền văn hoá. Thật vậy, có nhiều cách sử dụng sự vật, nhiều cách làm việc và diễn tả tư tưởng, nhiều cách phụng tự và tạo nên thuần phong mĩ tục, nhiều cách thiết lập luật lệ và định chế pháp lý, nhiều cách phát triển khoa học, nghệ thuật và trau dồi thẩm mĩ, nên mới phát sinh nhiều cách chung sống và nhiều hình thức hoà hợp các giá trị của cuộc sống. Như thế, từ các định chế lưu truyền, hình thành một di sản riêng cho mỗi cộng đoàn nhân loại. Cũng do cách thức ấy mà hình thành một môi trường lịch sử nhất định của con người, bất cứ dân tộc nào hay thời đại nào, để từ môi trường đó con người rút ra những giá trị hầu thăng tiến nền văn minh nhân loại” (số 53).

1.5. Trong tông huấn GHCA, ĐTC đã gián tiếp nhắc đến các yếu tố cơ bản về văn hoá để chúng ta nhận thức được nội dung lớn lao của vấn đề.

– Trước hết, ngài xác nhận: “Châu Á có nhiều nền văn hoá”, được hiểu như là những hệ thống giá trị. Ngài nói: “Thánh Thần đã cho chúng ta hiểu biết chân lý toàn diện, thì cũng có thể giúp chúng ta đối thoại với các giá trị văn hoá và tôn giáo của các dân tộc được kết quả” (GHCA, số 21).

– “Văn hoá là kết quả xuất phát từ cuộc sống và sinh hoạt của một tập thể nhân loại, thì đối lại những con người thuộc tập thể này lại được khuôn đúc trong một phạm vi rộng bởi chính nền văn hoá, trong đó họ đang sinh sống. Nếu con người và xã hội thay đổi, văn hoá cũng sẽ thay đổi theo. Ngược lại, nếu văn hoá đổi thay thì con người và xã hội cũng được văn hoá ấy biến đổi theo” (GHCA, số 21). Như thế, ĐTC như muốn xác định các giá trị của nền văn hoá là do con người sáng tạo và tích luỹ qua những hoạt động trong môi trường sống của mình giữa xã hội. Ví dụ, trong xã hội phong kiến ở Việt Nam thời trước, quan niệm “trai thì năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” bắt nguồn từ loại hình văn hoá nông nghiệp đã thay đổi thành gia đình “một vợ một chồng” trong nền văn hoá mới, trong đó giá trị người phụ nữ được nâng cao.

1.6. Đức hồng y Ratzinger, cựu Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, trong bài phát biểu với Liên Hội đồng Giám mục Á Châu, họp tại Hồng Kông từ ngày 3 đến 5-3-1993, đã định nghĩa: “Văn hoá là hình thức chung, được phát triển qua dòng lịch sử, diễn tả các quan niệm và giá trị chi phối đời sống của một cộng đồng“. Nó bao gồm các yếu tố sau đây:

Trước hết, văn hoá có liên quan với tri thức và các giá trị. Văn hoá là một nỗ lực hiểu biết về thế giới và cuộc sống con người trong thế giới nhằm phục vụ những ích lợi căn bản của đời sống con người. Nhờ sự hiểu biết này, con người biết cách hành xử theo các giá trị tạo nên đạo đức học. Trong sự hiểu biết năng động này, con người luôn đặt vấn đề Thiên Chúa hay thần linh. Các nền văn hoá lớn đều giải thích về thế giới con người sống để đưa thế giới quy phục Đấng thần linh.

Văn hoá luôn gắn liền với một chủ thể xã hội trong đó mỗi cá nhân vượt qua chính mình để đạt tới một chủ thể mang tính xã hội rộng lớn hơn. Chủ thể này vừa thu thập kinh nghiệm, vừa gọt dũa để hình thành nên các quan niệm nơi cá nhân.

Văn hoá có tính lịch sử nghĩa là có khả năng biến chuyển theo dòng thời gian vì con người luôn tìm tòi hiểu biết để thích nghi với những biến đổi của môi trường và lịch sử bên ngoài (x. DC, số ra ngày 16-7-1995; BTHT số 5-1999, tr. 169-206).

1.7. Tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Thường kỳ Lần XIII, tháng 10/2012, ở Roma với chủ đề “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền Đức tin Kitô giáo”.

Tài liệu này gồm 169 số, được phát hành ngày 27/5/2012 đề chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Giám mục Thường kỳ Lần XIII, tháng 10/2012, ở Roma. Tài liệu đã dành trọn phần 2, “Thời điểm cho một cuộc Tân Phúc Âm hoá”,  từ số 41 đến số 89 để bàn về những đổi thay của cộng đồng nhân loại về văn hoá, nghĩa là mọi mặt của đời sống con người đề thúc đẩy người tín hữu phải thay đổi cách sống và cách truyền bá đức tin bằng việc Tân Phúc Âm hoá: “Tân Phúc Âm hoá mang hình thức của một lời kêu gọi, một câu hỏi mà Giáo Hội nêu lên về chính mình, để Giáo Hội có thể tập hợp nghị lực thiêng liêng của mình và quyết tâm đóng một vai trò rõ ràng và tích cực trong khung cảnh văn hoá mới này, bằng cách nhìn nhận bất cứ điều gì là tốt trong các lĩnh vực mới này, đồng thời cống hiến sức sống mới cho đức tin và bổn phận loan báo Tin Mừng của mình.. Tính từ “mới” là chỉ về một tình hình văn hoá đã thay đổi và chỉ về nhu cầu đối với Giáo Hội là phải có sức sống mới, quyết tâm, nguồn lực và sự mới mẻ để tìm ra cách thức sống và truyền bá đức tin của mình…. Có vẻ như nhiều cộng đồng Kitô giáo đã không nhận thức được đầy đủ sự thách thức và mức độ lớn lao của cuộc khủng hoảng gây ra bởi môi trường văn hoá ngay cả bên trong Giáo Hội…” (TLLV, số 49).

2. Hội nhập văn hoá

Hội nhập văn hoá là một từ ngữ mới được hình thành trong Giáo Hội Công giáo và được nêu lên trong các văn kiện quan trọng của Giáo Hội như Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 13; Tông huấn Loan báo Tin Mừng, số 20; thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Độ, số 52. Trong tông huấn GHCA, ĐTC nhắc đi nhắc lại từ này nhiều lần, đặc biệt ở số 21 (4 lần) và 22 (10 lần).

2.1. Định nghĩa

Hội nhập là hoà mình vào trong một cộng đồng lớn (nói đến quan hệ giữa các dân tộc, các quốc gia). Ví dụ: Hội nhập vào cộng đồng quốc tế là một yêu cầu tối thiểu của thời đại, Việt Nam hội nhập vào khối ASEAN.

Hội nhập văn hoá là hoà mình vào trong nền văn hoá hay đúng hơn là chấp nhận một hệ thống giá trị mới.

Chủ thể hội nhập ở đây được xác định là một cá nhân hay một tập thể (cộng đồng Giáo Hội) tiếp nhận một phần hay toàn bộ hệ thống giá trị đã có sẵn của một dân tộc nào đó. Ví dụ các thừa sai nước ngoài khi đến Việt Nam giảng đạo đã học tiếng nói của ngưới Việt, ăn mặc như người Việt, trình bày giáo lý theo cách hiểu của người Việt. Như thế là họ đang hội nhập vào nền văn hoá Việt Nam. Do đó khi sống ở Việt Nam, họ đã tự do chọn lựa các giá trị tốt đẹp của nền văn hoá Việt Nam để làm giàu cho các giá trị có sẵn của mình, chứ không đánh mất nền văn hoá của mình để trở thành một người hoàn toàn theo nền văn hoá Việt Nam. ĐHY Ratzinger đề nghị “chúng ta không nên nói hội nhập văn hoá mà phải nói là sự gặp gỡ giữa các nền văn hoá hay có thể nói là tính giao thoa văn hoá” (Inter – culturality) (x. J. Ratzinger, Niềm tin vào Đức Kitô trước sự thách đố của các nền văn hoá, 5-3-1993, Bản tin Hiệp Thông, số 2-1999, tr.17). Thực ra, ngày nay từ hội nhập văn hoá đã bao gồm việc gặp gỡ và giao lưu giữa các nền văn hoá rồi.

2.2. Chủ thể hội nhập là ai?

Chủ thể hội nhập trước hết hiểu là Giáo Hội. “Nhờ hội nhập văn hoá, về phần mình, Giáo Hội sẽ trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn giúp người ta hiểu bản chất của mình, đồng thời Giáo Hội cũng trở thành một dụng cụ đắc lực hơn để thi hành sứ mạng (x. Sứ vụ Đấng Cứu Thế, số 52). Sự liên kết với các nền văn hoá luôn luôn là một phần trong cuộc hành trình của Giáo Hội qua lịch sử” (x. GHAC, số 21).

Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc đưa đức tin Kitô Giáo Hội nhập văn hoá vào châu Á (GHAC, số 21). Ngoài tác nhân chính là Chúa Thánh Thần, chủ thể hội nhập chính là Giáo Hội được hiểu như là cộng đồng Kitô hữu. Những con người này, hay Giáo Hội, có một nền văn hoá riêng, nghĩa là có cả một hệ thống giá trị vật chất cũng như tinh thần được sáng tạo và tích luỹ qua dòng lịch sử. Bây giờ Giáo Hội gặp gỡ và đối thoại với một nền văn hoá nào đó, “trong quá trình gặp gỡ các nền văn hoá khác nhau của thế giới, Giáo Hội chẳng những truyền đạt các chân lý và giá trị của mình, cũng như đổi mới các nền văn hoá ấy từ bên trong, mà còn thu dụng nhiều yếu tố tích cực có sẵn từ các nền văn hoá khác nhau ấy” (GHAC, số 21).

Một thí dụ cụ thể, khi Kitô giáo được truyền vào Việt Nam cách đây 3, 4 thế kỷ, dân tộc ta lúc đó đang chịu ảnh hưởng nặng nề của Nho giáo và nền quân chủ độc tài, phong kiến. Nho giáo dạy người dân phải trung với vua vì vua là thiên tử thay Trời trị dân, có toàn quyền sinh sát đến độ “quân sử thần tử, thần bất tử bất trung“. Người Công giáo lại được dạy chỉ có Chúa Trời làm chủ của sự sống, là Cha hết mọi người và tất cả đều là anh em nên đều bình đẳng với nhau về giá trị làm người, dù vẫn có tôn ti trật tự trong xã hội. Đức Giêsu Kitô là Thiên Tử, là Con Chúa Trời, không bắt ai chết mà lại còn chết thay cho mọi người để hoà giải mọi người với Thiên Chúa. Vì thế, người tín hữu không chống đối, phản loạn đối với vua, nhưng họ không thể tuân lệnh vua bỏ đạo được. Dù có bị bách hại, bị giết chết nhưng người tín hữu vẫn không thù oán kẻ bách hại mình. Trái lại, họ vẫn yêu thương và trung thành với vua, với dân tộc. Như thế, Giáo Hội đã thật sự truyền đạt các chân lý về yêu thương, tự do, về giá trị làm người cho nền văn hoá Việt Nam và cuộc hội nhập văn hoá này đã mang lại nhiều ích lợi cho dân tộc Việt.

Hơn nữa, việc hội nhập văn hoá bao gồm nhiều giá trị trên các lĩnh vực khác nhau, nên chủ thể hội nhập có thể trao đổi, gặp gỡ và đón nhận các giá trị trên nhiều bình diện khác nhau. Vì thế, ĐTC nói đến việc đưa Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, hay đưa những giá trị về đức tin, thần học, phụng vụ, linh đạo, huấn giáo của Kitô Giáo Hội nhập vào một nền văn hoá nhất định (ở đây là đưa vào niềm tin, quan niệm, đời sống của cộng đồng người Việt Nam trong một giai đoạn nhất định) (x. GHCA, số 22). Vấn đề đã được Công đồng Vatican II bàn sâu hơn trong hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes từ số 54 đến 62.

2.3. Nội dung hội nhập là gì? Định nghĩa và hướng mở rộng của văn hoá như Giá trị Tuyệt đối. Hội nhập văn hoá là đem Thiên Chúa, giá trị tuyệt đối, vào trong mọi sinh hoạt của con người.

Văn hoá được hiểu như là tổng thể các giá trị do con người sáng tạo ra trong một giai đoạn nhất định của lịch sử và càng ngày người ta càng khám phá ra nền tảng của mọi giá trị là chính Thiên Chúa. Thiên Chúa được hiểu như là nguồn của chân thiện mỹ, của tình yêu và hạnh phúc, của công bình và bác ái, của tình yêu và tình huynh đệ…

Thí dụ: mỗi dân tộc có thể diễn tả tình yêu theo những cách thức khác nhau, nhưng nền tảng của tình yêu vẫn là Thiên Chúa. Người tín hữu khi hiểu hội nhập văn hoá là đem giá trị tình yêu vào trong đời sống của mình cũng như của dân tộc là được mời gọi đem Thiên Chúa vào đó. Nếu chúng ta suy nghĩ sâu xa hơn, trong muôn vàn cách diễn tả tình yêu, thì cách Đức Giêsu diễn tả là tuyệt vời nhất vì Người chính là tình yêu cụ thể của Thiên Chúa được diễn tả cho loài người. Vì thế, hội nhập văn hoá cũng đồng nghĩa với việc giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho cộng đồng nhân loại. Ở đây chúng ta thấy hội nhập văn hoá lại đồng nghĩa với việc tân Phúc Âm hoá.

Tuy nhiên, chúng ta đừng mang định kiến là phải luôn luôn giới thiệu và nêu rõ danh Đức Giêsu Kitô cho mọi người. Nếu Đức Giêsu là giá trị cao cả nhất của văn hoá thì giá trị ấy cũng đã mặc bộ áo văn hoá của dân tộc Do Thái trong mầu nhiệm nhập thể của Người. Người trở thành anh em của mọi người để hoà mình vào văn hoá của một dân tộc và mời gọi chúng ta đón nhận tất cả những giá trị của các dân tộc khác.

Cuối cùng, chúng ta có thể hiểu rằng: tất cả những hành động tạo nên giá trị cho con người đều là những hành động của Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kitô. Chúng mang giá trị vĩnh hằng vì thuộc về Thiên Chúa và mang giá trị cứu rỗi vì thuộc về Đức Giêsu Kitô. Niềm xác tín này phải mang lại niềm vui và hy vọng để thúc đẩy chúng ta tích cực xây dựng văn hoá cho cộng đồng con người.

Kết luận

Tóm lại, muốn loan báo về Đức Giêsu và chia sẻ Đức Giêsu như một quà tặng vô cùng quý giá cho đồng bào và anh em trên lục địa châu Á này, chúng ta phải hiểu người đang nghe mình là ai, nghĩa là đang thuộc về nền văn hoá nào. Họ có thể là người Việt Nam với 54 dân tộc khác nhau, hay là người Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines, Lào, Cambodia… Một khi xác định được nền văn hoá của họ, với những khái niệm và giá trị khác với Kitô giáo, ta lại phải tìm cách đối thoại để giới thiệu nền văn hoá Kitô giáo bằng những loại hình ngôn ngữ thích hợp khiến họ có thể hiểu được, trước khi mở lòng đón nhận những giá trị khác biệt của ta. Quá trình hội nhập văn hoá này “là con đường bắt buộc các nhà truyền giáo phải đi qua khi giới thiệu đức tin Kitô giáo và biến nó thành một phần trong di sản văn hoá của một dân tộc” (GHCA, số 21).

Tuy nhiên, việc tìm hiểu nền văn hoá và việc hội nhập văn hoá không phải là chuyện đơn giản, dễ dàng như thực tế đã chứng tỏ trong lịch sử truyền giáo cho các dân tộc ở châu Á. Chính vì thế mà người tín hữu chúng ta được mời gọi để tham gia tích cực vào công trình này.