23/12/2024

Xung đột nước và số phận Đồng bằng sông Cửu Long

“Xung đột” nước trên sông Mê Kông ngày càng căng thẳng và số phận của vùng ĐBSCL thực sự bị đe doạ trước khô hạn và nước biển xâm thực.

 

Xung đột nước và số phận Đồng bằng sông Cửu Long

“Xung đột” nước trên sông Mê Kông ngày càng căng thẳng và số phận của vùng ĐBSCL thực sự bị đe doạ trước khô hạn và nước biển xâm thực.




Sông Mê Kông nơi cột mốc biên giới giữa Thái Lan và Lào -  /// Ảnh: Đình Tuyển

Sông Mê Kông nơi cột mốc biên giới giữa Thái Lan và Lào –ẢNH: ĐÌNH TUYỂN

Theo những thông tin chúng tôi có được trong chuyến đi thực tế tại Thái Lan hồi cuối tháng 7, thì dự án Kong-Loei-Chi-Mun nhằm lấy nước tưới cung cấp cho 4 lưu vực sông bao trùm 17 tỉnh thành phía đông bắc Thái Lan với diện tích tưới 1,8 triệu ha vào mùa mưa và khoảng 900.000 ha trong mùa khô.
Dự án sẽ lấy lượng nước tương đương 1.200 m3/giây từ Mê Kông. Vào mùa khô, lưu lượng dòng chảy trên sông Mê Kông những năm gần đây chỉ khoảng 2.500 m3/giây. Như vậy, lượng nước dự án Kong-Loei-Chi-Mun lấy gần như chiếm một nửa lượng nước trên sông Mê Kông.
ĐBSCL sẽ không còn đủ nước
 
 
Theo Trung tâm con người và thiên nhiên (PanNature), lưu vực sông Mê Kông có tổng diện tích khoảng 795.000 km2 với tổng lượng nước hằng năm khoảng 475 tỉ m3. Trong đó, Trung Quốc chiếm 16%, Myanmar 2%, Lào 35%, Thái Lan 18%, Campuchia 18% và VN 11%. Đáng chú ý, lưu lượng nước không rải trong năm mà tập trung vào 5 tháng mùa mưa, vì vậy lượng nước chênh lệch giữa hai mùa rất lớn.
 
Không chỉ Thái Lan mà Campuchia, Lào cũng đang tăng cường một số dự án tưới và lấy nước từ sông Mê Kông cung cấp cho các cánh đồng ở phía bắc Viêng Chăn với lưu lượng dự kiến khoảng 240 m3/giây. Campuchia cũng có dự án tưới cho các cánh đồng dọc theo hai bên bờ sông Mê Kông và Biển Hồ (Tonlesap), lưu lượng khoảng 500 m3/giây.
Nếu các nước trên lấy nước như vậy thì lượng nước đổ về ĐBSCL sẽ rất ít, có thể dưới 500 m3/giây, không đủ nước chúng ta sử dụng cho sinh hoạt, ăn uống, tưới cho các vùng canh tác.
Đặc biệt là nước từ Mê Kông chắc chắn không đủ để ngăn và đẩy nước mặn ra biển, khiến xâm nhập mặn sẽ sâu hơn. Đó là nguy cơ rất lớn cho việc sử dụng nước ở ĐBSCL trong tương lai. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu sẽ làm cho tình hình ngày càng khó khăn hơn. Ngay ở Thái Lan, nơi gần như hưởng lợi rất nhiều từ những dự án này mà cộng đồng vẫn còn quan ngại thì điều chắc chắn các quốc gia ở phía hạ nguồn sự quan ngại càng tăng lên nhiều hơn.
Cần làm gì để hạn chế tác động đó ?
Hiện nay các thông tin về dự án chuyển nước hoặc mở rộng diện tích canh tác ở Thái Lan, Lào và Campuchia chưa được đầy đủ.
Thông tin này một số nhà khoa học có nghe nhưng các số liệu và tiến trình dự án thì vẫn chưa được thu thập đầy đủ. Trước mắt có thể qua những thông tin khác nhau và có thể dùng các phương tiện thông tin đại chúng để đưa những thông tin này lên cho mọi người biết. Đồng thời, VN phải chủ động gặp gỡ các nhà khoa học, các nhà quản lý hay người sử dụng nước ở các lĩnh vực khác nhau phân tích các hiện trạng, nguy cơ trong tương lai để tìm ra giải pháp ứng phó hữu hiệu.
Chúng ta cũng cần thông qua Uỷ ban Sông Mê Kông VN nêu ra những đàm phán, hay còn gọi là ngoại giao nguồn nước, để đàm phán với các nước ở thượng nguồn cách thức phân chia tài nguyên nước trên sông Mê Kông, bao gồm việc chia sẻ quyền lợi của các quốc gia ở phía thượng nguồn cũng như các quốc gia ở phía hạ nguồn; đồng thời chia sẻ những thông tin liên quan đến rủi ro các quốc gia phải đối mặt. VN nên yêu cầu các chủ dự án công khai minh bạch thông tin dự án để các nhà khoa học, các nhà hoạt động xã hội, các nhà hoạt động môi trường phản biện lại dự án.
Lấp lỗ hổng của Hiệp định Mê Kông
Theo Hiệp định Mê Kông 1995, tất cả dự án trên dòng chính phải thông qua thủ tục thông báo, tham vấn trước và chấp thuận. Tuy nhiên, những quy định đó chỉ áp dụng cho dòng chính trên sông Mê Kông, còn trên dòng nhánh thì chủ dự án hay các nước đề xuất ra các dự án họ chỉ làm một thủ tục duy nhất là thông báo, thông báo để thông qua dự án sông Mê Kông. Thái Lan có vẻ đã “lách” hiệp định khi xây dựng công trình trên dòng nhánh, nhưng thực chất là lấy nước từ sông Mê Kông.
Hiệp định Mê Kông 1995 đến bây giờ đã 21 năm vẫn còn có lỗ hổng về mặt áp dụng. Đây là lúc các nước ký kết trong dự án này phải họp lại để đánh giá và coi lại trong các thoả thuận có những gì cần điều chỉnh, những lỗ hổng nào phải bù đắp để chúng ta có thể ký kết hiệp định khác với những ràng buộc chặt chẽ hơn, như xem xét lại dự án nếu 1 hay 2 quốc gia không đồng ý thì có thể ngưng lại. Hiện tại, Hiệp định Mê Kông 1995 không có điều kiện bắt buộc phải tuân thủ.
Tất nhiên, việc yêu cầu cả 4 quốc gia ngồi lại rà soát lại để ký hiệp định mới thì không phải dễ dàng. Thách thức này đòi hỏi phải có sự tham gia của cộng đồng quốc tế, các nhà khoa học, các tổ chức xã hội, báo chí.
Phải thông báo và tham khảo nhau
ĐBSCL đang bị đe doạ bởi sự sụt giảm về lượng phù sa bồi đắp, kiến tạo cho đồng bằng do những đập thuỷ điện ngăn lại. Tôi là người phản đối những dự án trên sông Mê Kông và cả Kong-Loei-Chi-Mun vì nó ảnh hưởng rất lớn đến người dân mà chủ yếu là dân nghèo. Trước những vấn đề của Mê Kông hiện nay, tôi thấy rằng không chỉ các nước trong Uỷ hội Sông Mê Kông (MRC) mà cả 6 nước gồm cả Trung Quốc và Myanmar phải ngồi lại đối thoại, chia sẻ. Hiện tại những thoả thuận giữa 4 nước trong MRC không có đủ sức ràng buộc phải đối thoại thẳng thắn lại.
(Bà Sor Rattanamanee Polka, luật sư Trung tâm nguồn lực cộng đồng Thái Lan)
Hiệp định 1995 nêu rõ các quốc gia có quyền sử dụng nước nhưng phải thông báo, tham khảo nhau, nếu chuyển nước ra ngoài lưu vực trong mùa khô thì phải thỏa thuận bằng một hiệp định. Đã là quyền của người ven sông thì các bên nên tham gia theo dạng chia sẻ thông tin và đối thoại, tránh phản ứng theo kiểu “hễ ai làm gì cũng phản đối”.
(Bà Đỗ Hồng Phấn, chuyên gia độc lập)

 

PGS-TS Lê Anh Tuấn 
(Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu, Trường ĐH Cần Thơ)