28/11/2024

Các tôn giáo lớn ở VN và những vấn đề Tân PAH

Muốn TPAH hiệu quả chúng ta cần phải hiểu biết về các tôn giáo có mặt ở VN, nhất là các tôn giáo lớn, để có thể đối thoại với tín đồ của các tôn giáo ấy trong sự hiệp thông mà Giáo Hội mong muốn.

 

Các tôn giáo lớn ở VN  và những vấn đề Tân PAH 

 

Xin Cha nói sơ qua đến các tôn giáo lớn ở VN và những vấn đề PAH của GHCGVN trong tương quan với các tôn giáo đó.

Muốn TPAH hiệu quả chúng ta cần phải hiểu biết về các tôn giáo có mặt ở VN, nhất là các tôn giáo lớn, để có thể đối thoại với tín đồ của các tôn giáo ấy trong sự hiệp thông mà Giáo Hội mong muốn như Công đồng Vaticanô II đã dạy trong các văn kiện của Công đồng.

1. Thành phần tôn giáo trong cơ cấu dân tộc

Sau đây là số thống kê mới nhất và tương đối chính xác hơn cả so với nhiều số liệu của các tổ chức trong tôn giáo hay ngoài tôn giáo vì được thực hiện rất bài bản, nghiêm túc trong đợt tổng điều tra dân số toàn quốc. Theo Thống kê của Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam thực hiện ngày 1/4/2009, dân tộc VN có 13 tôn giáo với số tín đồ như sau:

Theo bản thống kê này, số người theo tôn giáo cả nước chỉ có 18,23% dân số gồm 15.651.467 người trên tổng dân số 85.846.997 tính vào thời điểm 1/4/2009. Trong số 13 tôn giáo, chúng ta thấy có Phật giáo chiếm 7,92%, Công giáo 6,61%, Hoà Hảo 1,66%, Cao Đài 0,94% và Tin Lành 0,85%. Các tôn giáo còn lại có số tín đồ rất ít. Có hơn 81% dân số đã không kê khai tôn giáo của họ. Chỉ có 30 người không kê khai rõ ràng tôn giáo của mình (x. Ban Chỉ đạo Tổng Điều tra Dân số, Kết quả Toàn bộ Tổng Điều tra Dân số, NXB Thống Kê, Hà Nội 2010, tr. 281).

Trong tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999, số tín hữu Tin Lành lúc đó là 410.134 người; 10 năm sau tăng lên 734.168, và năm 2015 khoảng từ 1 triệu đến 1,4 triệu người (x. Báo Pháp Luật, bài của Nguyễn Cao Thanh; Ban Tôn giáo Chính phủ, Wikipedia, mạng Internet, Tin Lành tại Việt Nam, truy cập ngày 7/9/2015). Như thế, số tín hữu Tin Lành tăng gấp 3 lần trong vòng 20 năm. Trong khi đó, số tín hữu Công giáo là 5.111.119 người vào năm 1999; 5.677.086 người vào năm 2009 và 6.469.084 người vào ngày 1/4/2015 (Theo Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN). Số tín hữu Công giáo vẫn giữ nguyên tỷ lệ gần 7% suốt 130 năm qua, số người tăng 1,3 triệu trong thời gian từ 1999-2015 chỉ tương đương với đà phát triển tự nhiên. Đây là điều GHCGVN cần lưu ý về lĩnh vực PAH.

Đại đa số trong 81% dân số này, dù không khai là đang theo một tôn giáo cụ thể nào, nhưng lại có một niềm tin mãnh liệt, mà người ta gọi là tín ngưỡng, có khi gọi là theo đạo thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra, ta cũng nên chú ý đến các tín ngưỡng bản địa ở Tây Nguyên và miền núi phía Bắc, các tín ngưỡng phụ phổ biến như Đạo Mẫu, Đạo giáo, Nho giáo, việc thờ Thành Hoàng ở một số nơi vùng quê hay thờ Cá Ông ở các vùng biển.

Chúng ta ghi nhận rằng trong tờ khai điều tra dân số 2009 về tôn giáo không có mục “Đạo thờ cúng tổ tiên” hay “Vô thần”. Số người “không tôn giáo” này, vào những ngày lễ, Tết, đầu tháng hay giữa tháng Âm lịch, cũng có thể đi đền chùa, khiến người ta lầm tưởng họ theo Phật giáo. Nhưng nếu hỏi họ có phải là theo Phật giáo hay “vô thần” không thì nhiều người quả quyết là “không”.

Ta cũng nên lưu ý: nếu chỉ căn cứ vào số liệu thống kê này, người ta có thể đánh giá thấp vai trò của các tôn giáo trong đời sống xã hội vì ảnh hưởng chưa tới 20% dân số. Thực tế người VN có một lòng đạo đức sâu xa, hầu hết tin vào một Đấng Tối Cao, Đấng linh thiêng gọi là Trời, ông Trời, Chúa Trời, ông Thiên. Đấng linh thiêng ấy là nền tảng cho đạo lý con người, giúp họ sống công minh, chính trực, ăn ở nhân nghĩa với nhau. Trong văn chương cũng như trong thực tế hằng ngày, nhiều người dân VN vẫn tin rằng “Trời cao có mắt”, “Thiên bất dung gian”, “lưới Trời lồng lộng”, “duyên Trời định”… Các trẻ em vẫn còn hát những bài đồng dao như: “Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp”…

Để bảo vệ  nền đạo đức dân tộc và gìn giữ  bản sắc văn hoá của dân tộc, chúng ta cần phải để ý đến con người VN, nhất là những người trẻ trong xã hội hiện nay, đang được giáo dục như thế nào về niềm tin này. Sự suy thoái đạo đức và văn hoá của một bộ phận xã hội hiện nay cũng phản ánh một nền giáo dục kém chất lượng mà cả xã hội quan tâm và bàn đến rất nhiều trong thời gian gần đây.

2. Thực hiện chương trình hiệp thông

Việc thực hiện các hoạt động hiệp thông giữa GHCGVN với các tôn giáo và với những người không tôn giáo cần được Văn phòng Mục vụ Đối thoại & Liên tôn và các uỷ ban trực thuộc HĐGMVN nghiên cứu, đề nghị và hướng dẫn thì mới mong có những kết quả thật sự tốt đẹp và bền vững, chứ không phải chỉ là những cuộc gặp gỡ nặng phần hình thức ngoại giao, tốn kém tài chính cho những bữa tiệc và quà tặng.

Muốn thế, Văn phòng này nên chú ý đến thành phần tôn giáo trong cơ cấu dân tộc để thấy việc đối thoại với thành phần “không tôn giáo” là quan trọng nhất vì chiếm tới 81% dân số, sau đó mới đến việc đối thoại liên tôn với hơn 12% đồng bào theo các tôn giáo khác ngoài Kitô giáo và sau cùng mới tới việc đối thoại đại kết với anh chị em trong Kitô giáo chỉ chiếm khoảng hơn 1% dân số hiện nay.

2.1. Đối thoại với người không có tôn giáo

Trong cuộc đối thoại với người không có tôn giáo, chúng ta sẽ khởi đầu từ niềm tin tưởng sâu xa ấy để tìm hiểu về tôn giáo như là nét văn hoá mới rất cần thiết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, cũng như xây dựng con người Việt Nam.

THĐGM Thế giới 2012 cổ vũ việc đối thoại với những người không tôn giáo và nhắc nhở tín hữu Công giáo có nhiệm vụ giúp họ tìm ra chân lý: “Ngày nay, ý niệm hiện đại cho rằng tự do có nghĩa là độc lập tuyệt đối với chân lý, khiến người ta coi chủ nghĩa tương đối là lối suy nghĩ thích hợp nhất để sống trong bối cảnh đa dạng về văn hoá và tôn giáo. Về phương diện này, nhiều câu trả lời khuyến cáo các cộng đoàn và từng cá nhân tín hữu Kitô, nhân danh sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8,32), phải biết cách dẫn đưa con người tới sự thật, bình an và việc bảo vệ phẩm giá của mỗi con người cũng như phải biết cách hành động chống lại mọi hình thức bạo lực và phủ nhận nhân quyền” (x. TLLV, số 126).

Trong cuộc đối thoại này, chúng ta bắt đầu từ tình trạng suy thoái đạo đức của dân tộc dẫn đến yêu cầu nhận thức mới về tôn giáo như là một hình thức tối thượng của văn hoá vì tôn giáo chân chính luôn cổ vũ cho con người sống theo những giá trị cao quý của chân thiện mỹ. Từ đó, xã hội sẽ không còn coi tôn giáo như là một hình thức xa lạ, đối nghịch với nền văn minh, để nhận ra những đóng góp tích cực của các tôn giáo trong dòng lịch sử, trong đó có Công giáo, và mời gọi mọi người xây dựng tín ngưỡng và tôn giáo như một nét văn hoá mới cho dân tộc Việt Nam. (x. Nguyễn Ngọc Sơn. Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, tr.353-370). Trong tinh thần này, chúng ta cũng có thể giúp cho những đảng viên Đảng Cộng Sản VN có khoảng hơn 4 triệu người và đoàn viên Đoàn Thanh Niên Hồ Chí Minh khoảng 6 triệu người cảm nhận được sự cần thiết của tôn giáo trong xã hội hiện nay.

2.2. Đối thoại liên tôn với tín đồ các tôn giáo ngoài Kitô giáo

Trong công cuộc Tân PAH ở Việt Nam, chúng ta không thể không quan tâm đến các đối tượng, là các anh chị em tín hữu thuộc các tôn giáo khác, đang nói gì về đạo của họ và về đạo của ta đối với một số vấn đề quan trọng như thiên đường địa ngục, luân hồi tiền kiếp, thờ cúng tổ tiên… Rất nhiều khi họ tưởng lầm về đạo ta hay ta tưởng lầm về đạo họ, dẫn đến thái độ lãnh đạm với nhau, không hợp tác hoặc có khi tranh chấp, xung đột và có thể gây nên cả chiến tranh tôn giáo như đã từng xảy ra trong lịch sử.

Vì thế GHCG, qua THĐGM thế giới năm 2012, đã khuyến khích các tín đồ gặp gỡ, đối thoại với nhau vì “các cuộc gặp gỡ đối thoại này là cơ hội đầy triển vọng để nhận thức rõ hơn sự phức tạp của ngôn từ và các hình thức của yếu tố tôn giáo trong nhân loại như được thấy trong kinh nghiệm của các tôn giáo khác. Chúng cũng cho phép người Công giáo hiểu rõ hơn những cách thức mà đức tin Kitô giáo sử dụng để diễn tả bản chất tôn giáo của tâm hồn con người và làm giàu cho di sản tôn giáo loài người bằng tính cách độc đáo của đức tin Kitô giáo” (x. TLLV, số 67).

Đối thoại liên tôn và thảo luận với các tôn giáo lớn của phương Đông là một cơ hội để các cộng đồng Kitô chúng ta đào sâu sự hiểu biết về đức tin của mình, cải thiện các công cụ đối thoại và hợp tác vào việc phát triển hoà bình trong xã hội” (x. TLLV, số 73).

Cuộc đối thoại liên tôn sẽ giúp con người tìm ra chân lý và thật sự tự do để đón nhận chân lý theo cách thế xứng hợp với phẩm giá và bản tính xã hội của con người” (x. TLLV, số 127).

Chính trong tinh thần đối thoại liên tôn của THĐGM thế giới 2012, những người có trách nhiệm hướng dẫn cộng đồng tín hữu Công giáo là các giám mục, linh mục, tu sĩ cần phải tìm hiểu sâu xa hơn về một số vấn đề liên quan đến sự sống con người sau khi chết như thiên đường hay địa ngục, tái sinh theo thuyết luân hồi hay phục sinh theo Chúa Giêsu Kitô, việc thờ cúng tổ tiên… để có thể hướng dẫn đúng đắn người tín hữu giáo dân. Những quy định và hướng dẫn của HĐGMVN trong các Thông cáo ngày 14/6/1965 và 14/11/1974 trong việc áp dụng Huấn thị Plane compertum est của Toà Thánh cần được sửa đổi và mở rộng thì mới phá tan được những nghi ngại về việc đạo Công giáo thiếu tôn kính đối với tổ tiên và chối bỏ thực tế về những người đã khuất (x. Nguyễn Ngọc Sơn. Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, tr.383-400).

2.3. Đối thoại đại kết với các tín đồ Kitô giáo

CĐ. Vaticanô II (1962-1965) đã cổ vũ việc đối thoại đại kết để hợp nhất toàn thể các Kitô hữu qua Sắc lệnh Unitatis Redintegratio (HN) ban hành ngày 21/11/1964 và mở ra Tuần lễ “Cầu nguyện cho sự hợp nhất Kitô hữu” hằng năm từ 18/1 đến 25/1. THĐGM XIII vào tháng 10/2012 tại Rôma cũng đã nhắc nhở chúng ta về việc đối thoại đại kết này ở các số 72 và 125 của TLLV. Sách GLHTCG, từ số 820 đến 822, đã nói đến sự hợp nhất Kitô hữu và tóm tắt những điểm chính yếu cần thực hiện để tiến hành hữu hiệu công cuộc xây dựng sự hợp nhất ấy như sau:

“Để đáp lại lời Thánh Thần kêu gọi xây dựng hợp nhất cho thích đáng, cần phải có:

– Một nỗ lực canh tân thường xuyên trong Giáo Hội nhắm tới việc sống ơn gọi của mình cho trung thành hơn. Nỗ lực canh tân ấy chính là động lực đẩy mạnh đà tiến hướng tới sự hợp nhất (HN 6);

– Một cuộc thay lòng đổi dạ “để sống Phúc Âm bằng một cuộc sống tinh tuyền hơn mãi” (HN 7), vì thái độ bất trung của các thành viên đối với hồng ân của Chúa Kitô, chính là nguyên nhân gây ra chia rẽ;

– Việc cầu nguyện chung, bởi vì cuộc thay lòng đổi dạ và cuộc sống thánh thiện, cùng với việc cầu nguyện chung và riêng cho sự hợp nhất các Kitô hữu, phải được coi là linh hồn của toàn bộ phong trào đại kết, và thật đáng được gọi là “công cuộc Đại kết thiêng liêng” (HN 8);

– Thái độ hiểu biết lẫn nhau trong tình huynh đệ (x. HN 9);

Việc đào tạo tinh thần đại kết cho các tín hữu và nhất là cho các linh mục (x. HN 10);

– Việc đối thoại giữa các nhà thần học và gặp gỡ nhau giữa các giáo hội và các cộng đoàn khác nhau (x. HN 4,9,11);

– Việc hợp tác giữa các Kitô hữu về những lĩnh vực khác nhau trong nỗ lực phục vụ con người (x. HN 12).

Con đường hợp nhất không phải là “con đường trở về” với Giáo Hội Rôma, mà là con đường, trong đó tất cả đều đồng hành hướng về sự hợp nhất mà Đức Kitô đã mong muốn.

Tại Việt Nam cũng như ở nhiều nơi trên thế giới, người ta thấy có những cuộc tranh luận gay gắt về một số khác biệt giữa Công giáo và các hệ phái Kitô giáo khác: “Thật vậy, tất cả đều xưng mình là môn đệ của Chúa Kitô nhưng lại cảm nghĩ và đi theo những đường lối khác nhau như thể chính Chúa Kitô bị phân rẽ vậy (x.1Cr 1,3). Quả thực sự phân rẽ này hiển nhiên vừa trái ngược với ý muốn của Chúa Kitô vừa là gương xấu cho thế giới và phương hại cho công cuộc rất thánh thiện là rao giảng Phúc Âm cho mọi thụ tạo” (CĐ. Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis Redintegratio, số 1; TLLV, số 125).

GHCGVN có thể cộng tác với Hội Thánh Tin Lành về nhiều phương diện, nhất là ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số, các hoạt động từ thiện. Trong tinh thần đối thoại để đóng góp vào công cuộc hợp nhất Kitô hữu, người tín hữu Công giáo Việt Nam có thể giới thiệu các câu giải đáp cho những vấn nạn như vấn nạn “Anh chị em ruột của Đức Giêsu Kitô” đã từng gây nhiều tranh cãi (x. Sđd, Cẩm nang…, tr. 371-382). Đây là việc được THĐGM 2012 khích lệ: “Phải tiếp tục có những cố gắng một cách thuyết phục để chứng tỏ mọi Kitô hữu đều hợp nhất trong việc chỉ cho thế giới thấy sức mạnh tiên tri và biến đổi của sứ điệp Phúc Âm” (TLLV, số 72).

Lời kết

Lệnh truyền của Đức Giêsu Phục Sinh “rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” như mở ra cho tín hữu Kitô những chân trời hoạt động mới trong việc Tân PAH. Như cộng tác với các thiên thần, xua trừ quỷ dữ và tà ma ra khỏi con người như nhiều tôn giáo khác đang làm và tác động lên vạn vật như ĐTC Phanxicô đã nói trong thông điệp Laudato si. Đây không phải là hoạt động hão huyền của những người mất trí, hoang tưởng. Qua việc gắn bó mật thiết với Đức Giêsu Phục Sinh và thở được Thần Khí của Người, chúng ta sẽ thấy đây là những hành động cần thiết và rất hiện thực của người tín hữu trong thời đại hôm nay để diễn tả sự hiệp thông trọn vẹn của mình.

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn