Tài liệu tĩnh tâm – Hướng tới sự trưởng thành toàn diện – Bài 24: Đi tìm nguồn đẹp
Nhiều người chúng ta muốn sống tốt đẹp mãi như Đức Giêsu Kitô. Muốn thế chúng ta phải xác định được nguồn chân thiện mỹ là gì, phải tìm nguồn ấy ở đâu và làm thế nào biến đổi mình thành đẹp trong đời sống.
Hướng tới
sự trưởng thành toàn diện
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
Tài liệu tĩnh tâm – 3/2020
PHẦN III
NẾP SỐNG VĂN HOÁ VIỆT NAM (tt)
Bài 24
Đi tìm nguồn đẹp
Trong bài “Sống đẹp từng giây phút trong đời” (Bài 25), nhiều người chúng ta muốn sống tốt đẹp mãi như Đức Giêsu Kitô. Muốn thế chúng ta phải xác định được nguồn chân thiện mỹ là gì, phải tìm nguồn ấy ở đâu và làm thế nào biến đổi mình thành đẹp trong đời sống.
1. Xác định nguồn chân thiện mỹ
Trong suốt dòng lịch sử nhân loại, con người đi tìm cái đẹp, cảm nhận được cái đẹp trong từng cánh hoa, ngọn cỏ; từng ánh mắt, nụ cười; từng ý nghĩ, lời nói; từng cử chỉ, hành động của mọi người và vạn vật quanh mình. Ai ai cũng có thể thấy cái đẹp, muốn cái đẹp, nhưng lại rất khó để có một khái niệm rõ ràng và định nghĩa chính xác về cái đẹp. Vậy đẹp là gì?
Cái đẹp là “cái có hình thức hoặc phẩm chất đặc biệt làm cho người ta thích nhìn ngắm hoặc kính nể, là cái có sự hài hoà, tương xứng”[1]. Như thế, “cái đẹp tồn tại trong thiên nhiên như trời, biển, núi sông, chim muông, hoa lá hay trong xã hội, được thể hiện qua những quan hệ giữa người với người, những hành vi đạo đức, những thái độ ứng xử. Cái đẹp còn tồn tại qua các hình tượng thẩm mỹ trong các tác phẩm nghệ thuật”[2]. Cái đẹp hay “mỹ”, theo giáo huấn Công giáo, “là cái làm vui lòng người nhìn ngắm. Bất cứ hữu thể nào, xét như là hữu thể, đều đẹp theo mức nó đạt tới hoặc gần đạt tới sự toàn hảo của bản tính nó. Trong các sự vật hoặc trong các hành động được coi là đẹp, cái đẹp có nền tảng nơi thế quân bình hoặc sự cân xứng của các thành phần cùng với một mức trong sáng được nhận biết. Là vẻ rực rỡ của cái Chân (đúng), cái Đẹp (mỹ) phần nào thực hiện sự tổng hợp của Chân và Thiện, người ta coi nó là một sự thiện mà chỉ hưởng được khi nhận thức và hội nhập nó”[3].
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Cái đẹp là chìa khoá mở cửa mầu nhiệm và là tiếng gọi mời ta vươn lên cao. Đó cũng là tiếng nói mời gọi ta cảm nếm cuộc sống và mơ về tương lai. Chính vì thế, cái đẹp của thụ tạo không bao giờ có thể làm ta cảm thấy thoả mãn hoàn toàn. Nó khơi dậy nỗi nhớ nhung thầm kín về Thiên Chúa, một sự thật mà chỉ có người mê say cái đẹp như thánh Augustinô mới diễn tả một cách tuyệt vời như sau: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới! Con yêu Chúa quá muộn màng”[4].
Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng: cái đẹp là một trong 3 thuộc tính cơ bản của hữu thể: đúng-tốt-đẹp, mà chúng ta vẫn gọi là chân-thiện-mỹ, vì bất cứ một hữu thể nào có thật thì đều tốt đẹp. Dù người ta còn tranh luận nhiều về mối quan hệ hỗ tương của chân thiện mỹ trong hữu thể, nhưng ta có thể nói rằng: “Đẹp là hình thức bên ngoài của cái tốt, cũng như tốt là điều kiện siêu hình của cái đẹp và cả hai cái tốt và đẹp đều phải nằm trong cái thật của hữu thể” [5].
Thiếu một trong 3 yếu tố này thì bất cứ một hữu thể nào cũng không được coi là đẹp và nếu có ai cho đó là đẹp thì cái đẹp ấy sẽ gây nguy hại cho người đón nhận nó cũng như cho các hữu thể khác. Điều này có thể cho ta hiểu tại sao trong việc thẩm định giá trị đẹp của một hoa hậu, người ta không chấp nhận những cái giả (từ bằng cấp giả, trình độ học vấn giả cho đến lông mày, lông mi giả, tóc giả, ngực giả…) hoặc những cái không tốt như người đó như nghiện rượu, nghiện ma tuý, có con ngoại hôn…
2. Tìm nguồn chân thiện mỹ ở đâu?
2.1. Cái đẹp qua góc nhìn của một vài tôn giáo
Trong hàng chục thế kỷ bị người Trung Quốc đô hộ, sống nghèo khổ, người Việt chỉ mong sao ăn no, mặc ấm chứ chưa nghĩ đến ăn ngon mặc đẹp. Từ thể kỷ X, sau khi giành được độc lập, người Việt mới có cơ hội mở ra với văn hoá Trung Quốc và từ thế kỷ XVI với văn hoá phương Tây để đón nhận cái đẹp trong nghệ thuật và mỹ thuật nước ngoài.
Trong dòng lịch sử dân tộc, người Việt chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các ý thức hệ hay các tôn giáo đã được du nhập vào Việt Nam nên ít người quan tâm đến cái đẹp. Theo quan điểm Phật giáo, vẻ đẹp của con người và của thiên nhiên vạn vật thì vô thường, tạm bợ vì chúng luôn thay đổi như thời tiết sáng nắng, chiều mưa. Bám vào những vẻ đẹp vô thường đó sẽ làm cho con người bị trầm luân khổ ải. Con người chỉ nên đi tìm cái tốt trong đạo chứ không nên đi tìm cái đẹp ở bất cứ nơi đâu.
Lão giáo chú ý nhiều đến cái đẹp của vạn vật nên gắn bó nhiều với thiên nhiên. Người ta học được bài học sống an nhiên tự tại như trời đất, bất kể những thăng trầm của cuộc đời, của vạn vật. Lão giáo đi tìm cái hồn của vạn vật và nhận ra mỗi loài trong vũ trụ đều có thần chi phối cái tốt, cái thật, cái đẹp của muôn vật muôn loài, từ đó phát sinh ra việc tôn thờ những vị thần cai quản chúng vì “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”.
Khổng giáo là ý thức hệ mạnh nhất chi phối tư tưởng các nhà trí thức trong xã hội Việt Nam, bắt đầu từ các triều đại Lý, Trần, nhất là khi chiếm địa vị độc tôn từ triều Lê (1428-1788) đến triều Nguyễn (1802-1945). Khổng giáo là một học thuyết đạo đức xã hội chính trị hơn là một tôn giáo vì không có lễ nghi, tổ chức, kinh nguyện, không tin có sự hiện diện của thần thánh hay ma quỷ dù có nhắc đến “Thiên” như một nguyên lý tối cao[6]. Khổng giáo quan tâm đến đời sống xã hội với các mối tương quan của con người, nhưng theo ý nghĩa của cái tốt, cái đúng, chứ không theo cái đẹp, vì chỉ muốn tổ chức xã hội được quy củ theo đúng tam cương, ngũ luân, ngũ thường. Cái đẹp của xã hội là theo đúng kỷ cương phép nước, cái đẹp của con người là sống theo đúng lễ nghĩa gia phong, chứ không phải là những nét đẹp trên hình hài, thể xác (Tốt gỗ hơn tốt nước sơn; Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người). Như thế, cái đẹp được hoà nhập vào cái đúng, cái tốt, chứ không phân biệt rõ ràng, tách biệt nhau[7].
2.2. Cái đẹp qua góc nhìn thần học Công giáo
Nền mỹ học thật sự nói lên mối quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực và rút ra được những quy luật chi phối những mối quan hệ đó chỉ xuất hiện với Công giáo cách đây khoảng 2.000 năm.
Trước đó, Do Thái giáo, với những cuốn kinh trong bộ Thánh Kinh Cựu Ước, cũng đã nhận ra cái đẹp bắt nguồn từ Đức Chúa Giavê. Ngài là nguồn của chân thiện mỹ (x. Kn 13,5). Ngài dựng nên toàn thể vũ trụ rất tốt đẹp và tạo thành con người tốt đẹp hơn cả theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài (x. St 1-2). “Chính Đấng sáng tạo mọi loài là tác giả của muôn vẻ đẹp… Vì các thụ tạo càng lớn lao, đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng tạo thành” (Kn 13,3-5). Nhưng tội lỗi của con người đã huỷ hoại tất cả và làm cho con người phải tàn tạ, xấu xí, chết chóc, cũng như vũ trụ phải lâm vào cảnh hư ảo, tan nát, khổ nhục (x. Rm 8,20-23). Tất cả đều mong đợi ngày được giải thoát, được tự do và vinh quang, được sống mãi như Thiên Chúa. Vì thế, toàn thể lịch sử Do Thái giáo hướng về Đấng Mêsia, Đấng Kitô, Đấng Cứu thế.
Kitô giáo đã chỉ rõ Đấng ấy là Đức Giêsu Nazareth. Người là Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành con người để đưa thần tính vĩnh hằng, đưa chân thiện mỹ của Thiên Chúa vào trong vũ trụ vật chất, nên từ nay tất cả vạn vật cũng như từng con người đều phản ánh cái đẹp vĩnh hằng của Thiên Chúa và có giá trị vô biên. Con người không phải chỉ khám phá ra Đấng Toàn Mỹ tạo nên vẻ đẹp của vạn vật[8], từ đó suy ra Thiên Chúa là cái đẹp tuyệt đối[9], nhưng còn nhận ra “cái đẹp là thuộc tính phổ quát của mọi hữu thể” (omne ens est pulchrum). Đó là luận đề căn bản của triết học Công giáo.
“Người tín hữu Công giáo không phải chỉ khám phá vẻ đẹp của vũ trụ, của con người, nhưng họ cần khám phá ra vẻ đẹp của đức tin, vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô”[10]. Chính trong cuộc gặp gỡ này, đôi mắt tinh thần của họ sẽ được Người chữa lành để nhận ra chính Người đã làm cho mọi người, mọi vật trở nên tốt đẹp vô cùng nhờ cuộc phục sinh của Người.
Từ khởi điểm “Thiên Chúa trở thành người để đưa chân thiện mỹ vào trong con người và vũ trụ vật chất” đó, Công giáo đã “rửa tội”, nghĩa là “công nhận” các nền nghệ thuật và mỹ thuật của mọi dân tộc, khởi đầu là nghệ thuật, mỹ thuật của Hy Lạp và Rôma. Nhiều công trình kiến trúc được biển đổi thành nơi thờ tự, nhiều đền thờ, thánh đường, tu viện được xây dựng ở các nước châu Âu ngay từ thế kỷ IV và còn tồn tại đến ngày nay. Nhiều tượng đài, điêu khắc, hoạ phẩm nổi tiếng của các thiên tài như Michelangelo (1475-1546), Leonardo da Vinci (1452-1519), Fra Angelico (1395-1455), Raphael (1483-1520), Titian (1485-1576), Guido Reni (1575-1642), Rembrandt (1606-1669), G. Battista Tiepolo (1696-1770), Antonio Canova (1757-1822), Pablo Picasso (1881-1973), Vincent Van Gogh (1853-1890), Edouard Manet (1832-1883),… đã được nền nghệ thuật và mỹ thuật Công giáo đón nhận vì chúng phản ánh cái đúng, cái tốt, cái đẹp của Thiên Chúa, của con người và vạn vật.
Nghệ thuật từ đó mang tính chất thánh thiêng: “Khi nhờ hình thức thích hợp, đáp ứng với ơn gọi riêng của nó, trong đức tin và sự tôn thờ, nghệ thuật thánh gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa, vẻ đẹp siêu phàm vô hình của chân lý và của tình yêu, đã xuất hiện nơi Đức Giêsu Kitô”[11].
“Mỹ thuật, chủ yếu là nghệ thuật thánh, tự bản chất nhằm diễn tả vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, được cảm nghiệm một cách nào đó qua những tác phẩm của con người. Nghệ thuật này càng làm cho Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn, một khi những tác phẩm đó không nhằm mục đích nào khác, ngoài sự góp phần tối đa để quy hướng tâm trí con người sốt sắng về cùng Thiên Chúa”[12]. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thư gửi các nghệ sĩ, đã nhắc nhở: “Thế giới chúng ta đang sống cần đến cái đẹp để không rơi vào thất vọng. Cái đẹp cũng như sự thật, đem lại niềm vui cho tâm hồn con người và là hoa trái quý giá có thể chịu được sự sói mòn của thời gian, nối kết được các thế hệ và làm cho họ hợp nhất trong cùng một tâm tình ngưỡng mộ”[13].
3. Diễn tả cái đẹp trong đời sống
Sau khi biết Thiên Chúa là nguồn của chân thiện mỹ và Đức Giêsu Kitô là phản ánh rõ ràng chân thiện mỹ này thì người Công giáo chúng ta có sứ mạng và trách nhiệm diễn tả “cái đúng, cái tốt, cái đẹp” đó trong đời sống hằng ngày “để mọi người trông thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha anh em ở trên trời” (Mt, 5,16) và nhờ đó họ nhận được sự cứu độ là niềm vui, bình an, hạnh phúc và sự sống vĩnh hằng.
Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ, người Công giáo ít quan tâm đến cái đẹp thể xác vì sợ rơi vào việc tôn sùng cái đẹp thân thể của người Hy Lạp và người Roma. Họ hầu như chỉ chú tâm đến cái đẹp tinh thần với những tài năng, đức tính và ân huệ Chúa ban. Trên con đường tìm về với Thiên Chúa là nguồn chân-thiện-mỹ, có những giai đoạn người tín hữu Công giáo đã bỏ quên cả con người để dồn tất cả danh dự, vinh quang cho Thiên Chúa. Có những thời kỳ người tín hữu Công giáo bị ảnh hưởng của phái Khắc kỷ, thuyết Nhị Nguyên nên hạ thấp giá trị thân xác con người, coi nó là nguồn của tội ác để chiều theo dục vọng. Người ta đã phải vẽ thêm các lá cây che kín những phần thân thể nhạy cảm trong các hoạ phẩm, tượng đài[14]. Công đồng Vaticanô II đã sửa sai điều này khi xác định: “con người là một chủ vị duy nhất có thân xác và linh hồn…Vì thế, không được khinh miệt đời sống thể xác con người, trái lại phải coi thân xác là tốt lành và đáng tôn trọng vì được Thiên Chúa tạo thành và sẽ được sống lại trong ngày sau hết”[15].
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thư gửi các nghệ sĩ, cũng đã nhắc đến câu nói của nhà văn Dostoevsky (1821-1881): “Cái đẹp sẽ cứu độ thế giới”[16]. Cái đẹp này không phải chỉ là lý tưởng của Thiên Chúa giáo như giáo sư Lê Ngọc Trà đã hiểu[17], sẽ giúp nhân dân Nga thoát cảnh đau khổ và bế tắc của xã hội vào thế kỷ XIX. Cái đẹp đó được hiểu là chính Thiên Chúa, như nguồn chân thiện mỹ và là chính Đức Giêsu đầy quyền năng để đưa toàn thể nhân loại và vũ trụ đi vào con đường tình yêu và giải thoát thật sự.
Đứng trước sự suy đồi của nền luân lý vì con người loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, người Công giáo có sứ mạng phải diễn tả cái đẹp trong đời sống để cứu độ thế giới, cứu độ dân tộc mình. “Đạo đức, lối sống, nhân cách, văn hoá của người Việt Nam chúng ta nhiều nơi, nhiều lúc đang làm xấu hình ảnh đất nước, con người, văn hoá Việt Nam” [18]. Cái dối trá, gian ác, xấu xí, rõ ràng cứ diễn ra trước mắt mọi người trong mọi lĩnh vực xã hội, trên các phương tiện truyền thông, trong chính quyền, thậm chí trong cả các lĩnh vực tôn giáo tâm linh, chứng tỏ nhiều người Việt Nam đang vô cảm, hờ hững, lạnh lùng với chân thiện mỹ.
Nếu không có những hành động kịp thời để diệt trừ cái sai, cái ác, cái xấu, và thúc đẩy cái đúng, cái tốt, cái đẹp phát triển trong đời sống cộng đồng xã hội, thì sợ rằng một ngày nào đó dân tộc thân yêu và hào hùng này sẽ không tồn tại. Đó là lời cảnh báo tha thiết của chúng tôi trước nguy cơ và thách đố đối với cái đẹp trong xã hội hiện nay.
Để hoàn thành sứ mạng này, chúng ta không phải chỉ cầu nguyện, ăn chay và làm các việc bác ái. Chúng ta cần phải học hỏi chân thiện mỹ thật sự là gì, rồi diễn tả ra như thế nào thành ý tưởng, lời nói, cử chỉ, hành động trong đời sống cá nhân, gia đình, xã hội. Việc này cần phải nhờ đến các uỷ ban của Hội đồng Giám mục Việt Nam về nghệ thuật thánh, giáo lý đức tin, phụng vụ, gia đình, giới trẻ, giáo dân…. nghiên cứu các bài học và giảng dạy, rồi phổ biến trong các tầng lớp giáo dân và hội đoàn Công giáo. Giáo hội Công giáo Hàn quốc đã làm được điều này từ 20 năm nay và đã biến đổi dân tộc Hàn để từ một đất nước nghèo khổ, lạc hậu trở thành một trong 10 nước phát triển hàng đầu thế giới và số tín hữu tin vào Đức Giêsu Kitô từ 1% vào năm 1949 nay tăng đến 33% dân số.
Khi hiện ra với ông Môsê trên núi Khoreb (x. Xh 3,1-8. 13-15), Thiên Chúa đã tự giới thiệu mình là Đấng Hiện Hữu, để nhắc nhở chúng ta rằng tất cả những gì “đang có” đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chính Ngài là nguồn của sự sống, hạnh phúc, tình yêu, nguồn của chân thiện mỹ và ơn cứu độ. Ngài đã chia sẻ những gì mình có cho mọi loài nên cái đẹp của Ngài chan hoà trong vạn vật. Nhưng trong thời đại gần đây, người ta muốn chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một trong những giả thuyết gây nên sự chối bỏ ấy, đó là Thuyết Tiến hoá của Darwin (1809-1882). Rất nhiều ý thức hệ và chủ nghĩa đã dựa vào giả thuyết này như một tiền đề để xác định rằng: vạn vật, và ngay cả những gì thuộc về tinh thần, đều bắt nguồn từ sự tiến hoá ngẫu nhiên của vật chất chứ không phải do tác động của một ai khác sáng tạo nên.
Ý thức hệ Hiện sinh vô thần và Cộng sản duy vật đã dùng ngay giả thuyết khoa học đó để chối bỏ nguồn của hiện hữu là Thiên Chúa. Nhiều người hiện nay, nhất là các em học sinh, sinh viên trong đất nước chúng ta, tin thuyết tiến hoá như là một chủ thuyết của khoa học, một sự thật trong đời sống mà không ngờ đó chỉ là một giả thuyết và giả thuyết này đang bị các nhà khoa học chống đối kịch liệt vì nó phản khoa học, tự mâu thuẫn và gây tác hại nặng nề trong đời sống con người [19]. Chúng ta không thể sống đẹp nếu chối bỏ nguồn đẹp là Thiên Chúa!
Lời kết
Vì vậy, người tín hữu Công giáo Việt Nam chúng ta quyết tâm từ nay sống đẹp và diễn tả cái đẹp của Chúa trong cách ăn nói, trang điểm, học hành, làm việc, vui chơi của mình. Chúng ta sẽ tích cực dấn thân trong mọi môi trường xã hội, kết kợp với nhau để làm chứng cho chân thiện mỹ, cộng tác với mọi người để phục vụ lợi ích chung, sẵn sàng chịu những thua thiệt, mất mát trong đời sống để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, nguồn đẹp cụ thể của Chúa Cha.
————————————————————
Câu hỏi gợi ý
1. Bạn có nghĩ rằng mình nên ăn mặc và trang điểm thật đẹp khi đi dự thánh lễ không? Tại sao?
2. “Sống đẹp như Giêsu” bao gồm những điểm cụ thể nào?
3. Bạn nghĩ gì về thuyết tiến hoá của Darwin?
————————————————————
Chú thích:
- x. Vietlex, Từ điển Tiếng Việt, 2013, NXB Đà Nẵng, mục từ Đẹp, tr.408. ↑
- x. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn, Từ Điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ Điển Bách khoa Việt Nam, 2005, tập I, tr.431. ↑
- x. Olivier de La Brosse, A.M Henry, P. Rouillard, Từ điển Đức tin Kitô giáo, mục từ Đẹp-beau. ↑
- x. Thánh Augustinô,Confession 10,27:CCL 27,251; x. Thư gửi các nghệ sĩ, ngày 4/4/1999, số 16. ↑
- x. ĐGH Gioan Phaolô II, Thư gửi Văn nghệ sĩ, số 3. ↑
- x. Ngô Tất Tố, Lều Chõng, tiểu thuyết phóng sự về đời một kẻ sĩ theo Khổng học, xuất bản ngày 10/3/1939 tại Hà Nội. ↑
- x. Vũ Văn Thước, Quan niệm về cái đẹp của một số trường phái triết học- tôn giáo phương Đông, Ban Tôn giáo Tp.Đà Nẵng, Website Ban Tôn giáo Chính phủ. ↑
- x. Bài giảng của thánh Augustinô số 241,2, PL 38, 1134; GLHTCG, số 32; Docat 2016, tr.240. ↑
- x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 2500. ↑
- x. Giáo hoàng Phanxicô, bài giảng ngày 24/1/2014; Docat, số 57. ↑
- x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 2502. ↑
- x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 2513; Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Phụng vụ Thánh Sacrosanctum concilium, 122-127, AAS 56 (1964). ↑
- x. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thư gửi các nghệ sĩ, ngày 4/4/1999, số 11. ↑
- x. Tranh cãi giữa Hồng y Carafa và Michelangelo, nghệ sĩ bị buộc tội là vô đạo đức, tục tĩu khi vẽ những ảnh trần truồng trên bức hoạ Ngày Phán xét cuối cùng ở nhà nguyện Sixtine, Bách khoa Toàn thư, Wikipedia, Nhà nguyện Sixtine. ↑
- x. Công đồng Vaticanô II (1965), Hiến chế Gaudium et Spes, số 14, Bản dịch của HĐGMVN, NXB Tôn Giáo, 2012, tr.233. ↑
- x. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thư gửi các nghệ sĩ, số 16; x. F. Dostoevsky, L’Idiot, phần III, chương V, Milan 1998, tr. 645. ↑
- x. Lê Ngọc Trà, Thách thức của sáng tạo, NXB Thanh Niên, 2002, tr.192. ↑
- Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam Niên giám 2016, NXB Tôn Giáo, tr. 215. ↑
- x. “Thuyết tiến hoá của Darwin: Đã đến lúc phải chấm dứt sự lừa dối vĩ đại”, bài trên You Tube, ngày 1/1/2018; bài “9 lý do chứng minh thuyết tiến hoá của Darwin sai”, You Tube, ngày 14/10/2018…. ↑