Những phát minh ‘để đời’ của người Thuỵ Sĩ
Nói đến Thuỵ Sĩ, nhiều người nghĩ ngay đến hệ thống ngân hàng an toàn hàng đầu thế giới và các thương hiệu đồng hồ cao cấp. Nhưng có lẽ ít ai biết nước này cũng là nơi sản sinh ra những phát minh quan trọng.
Những phát minh ‘để đời’ của người Thuỵ Sĩ
Nói đến Thuỵ Sĩ, nhiều người nghĩ ngay đến hệ thống ngân hàng an toàn hàng đầu thế giới và các thương hiệu đồng hồ cao cấp. Nhưng có lẽ ít ai biết nước này cũng là nơi sản sinh ra những phát minh quan trọng.
Với bản tính chú trọng thực tế, những phát minh của người Thụy Sĩ đều là những thứ rất thiết thực phục vụ cuộc sống con người. Chúng ta thử điểm qua một số phát minh đáng chú ý nhất của họ.
Khóa dán Velcro (1941)
Ngày nay khóa dán Velcro hiện diện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ những chiếc quai giày, ba lô, túi xách, túi đựng laptop đến máy đo huyết áp, các vật dụng trên máy bay.
Từ những năm 1960, các phi hành gia của NASA đã xài Velcro để cột giữ những thiết bị cần thiết trên bộ đồ phi hành và trong phi thuyền. Một bộ khóa dán Velcro kích cỡ 5cm x 5cm có thể chịu được lực đến 80kg.
Trước khi Velcro ra đời, người ta chỉ dùng các dây buộc, quai móc, nút gài để chằng buộc, cột các đồ vật, thao tác rất lỉnh kỉnh và tốn thời gian.
Năm 1941, kỹ sư người Thụy Sĩ George de Mestral thường vào rừng săn bắn cùng con chó của mình. Sau những lần đi săn về, ông để ý thấy có rất nhiều hạt cây ngưu bàng bám khá chặt vào quần áo của ông và trên lông con chó.
Mestral dùng kính hiển vi để quan sát một hạt cây và phát hiện bên trên bề mặt của nó có rất nhiều cái móc nhỏ li ti. Những cái móc này làm cho hạt bám chặt vào vải cũng như các loại lông động vật.
Mestral nảy sinh ý tưởng chế ra một loại ‘khóa’ tiện dụng thay cho các loại dây, móc khóa đang có. Nhưng cũng phải mất đến 8 năm nghiên cứu, Mestral mới sáng chế ra thứ khóa dán mà ông đặt tên là Velcro. Từ này xuất phát từ chữ ‘velvet’ (nhung) và ‘crochet’ (móc) trong tiếng Pháp.
Dây kéo (1923)
Thực ra người Mỹ đã nghĩ ra một mẫu ‘tiền-dây kéo’ và đăng ký sáng chế này vào năm 1851, nhưng mẫu này còn nhiều khiếm khuyết, không tiện dụng và gọn gàng.
Đến năm 1923, một doanh nhân người Mỹ tìm đến gặp ông Martin Winterhalter – một luật sư ở thành phố St. Gallen (Thụy Sĩ) để chào bán sáng chế này. Winterhalter rất nhạy bén, nhận ra tiềm năng thành công của sản phẩm mới nên bỏ ra 10.000 franc để sở hữu bằng sáng chế.
Ông nghĩ ra cách để làm cho các răng dây kéo khóa vào nhau trơn tru mà chỉ cần dùng lực kéo nhẹ. Và sản phẩm hoàn thiện của Winterhalter chính là loại dây kéo tiện dụng mà chúng ta xài hàng ngày hiện nay.
Hàng năm thế giới tiêu thụ đến 14 tỉ sợi dây kéo các loại, trong đó một nửa là được sản xuất ở Nhật bởi hãng dây kéo nổi tiếng YKK.
Giấy bóng kính cellophane (1912)
Giấy bóng kinh cellophane đã trở thành thứ không thiếu trong cuộc sống hiện nay – Ảnh: UNREALSIDE.COM
Ngày nay, mỗi dịp Giáng sinh và Tết, giấy bóng kính trong suốt dùng để gói quà là thứ không thể thiếu. Đây cũng là sản phẩm chủ lực dùng để bảo quản các loại thực phẩm.
Nguồn gốc phát minh này đến từ một sự tình cờ: nhà hóa học người Thụy Sĩ Jacques E. Brandenberger khi rót rượu vang đã làm đổ rượu xuống tấm vải trải bàn. Ông nảy ra ý tưởng chế tạo một loại vật liệu có thể chống sự thẩm thấu của các loại dung dịch thay vì hấp thụ nó.
Thoạt đầu, Brandenberger chế tạo một hóa chất gốc cellulose phủ lên bề mặt vải nhưng không thành công vì nó bị tách lớp và làm vải bị cứng lại. Nhưng ông nhận thấy có một lớp màng trong suốt bị bong tróc khỏi bề mặt vải, màng này có tính năng chống thấm rất tốt và tạo sự thẩm mỹ khi dùng để phủ lên đồ vật.
Từ phát hiện này, Brandenberger chế tạo thành công loại màng mỏng trong suốt dùng để bao gói hàng hóa đặt tên là cellophane, kết hợp hai từ cellulose và diaphane (trong suốt), nó là chế phẩm nhựa sinh học vì làm từ cellulose của gỗ.
Ngày nay, phần lớn màng cellophane được sản xuất từ dầu mỏ với các sản phẩm như PVC (Polyvinyl chloride) và PP (polypropylene).
Màn hình tinh thể lỏng LCD (1970)
Người ta có câu ‘chính xác như đồng hồ Thụy Sĩ’ để ca ngợi chất lượng các loại đồng hồ do Thụy Sĩ sản xuất. Không chỉ đồng hồ cơ, Thụy Sĩ cũng sản xuất đồng hồ dùng mạch điện tử có màn hình tinh thể lỏng LCD (Liquid Crystal Display).
Đây là phát minh năm 1970 của hãng Hoffman-La Roche, sau đó họ chuyển giao công nghệ cho hãng Brown, Boveri & Cie để sản xuất màn hình cho các loại đồng hồ và thiết bị khác bán ra khắp thế giới.
Điều thú vị là Hoffman-La Roche xưa nay không dính dáng gì đến công nghiệp đồng hồ, mà chuyên ngành của họ là sản xuất… dược phẩm và là một tên tuổi lẫy lừng trong làng y dược thế giới.
Kiểu dáng cổ ngỗng của chai dung dịch tẩy rửa nhà vệ sinh (1980)
Các chai nhựa đựng dung dịch tẩy rửa nhà vệ sinh luôn có phần trên hình cổ ngỗng (các nước dùng tiếng Anh gọi là Toilet Duck), kiểu dáng ngộ nghĩnh này giúp người ta có thể xịt chất tẩy rửa vào mọi ngóc ngách của các thiết bị vệ sinh.
Đây là phát minh của doanh nhân Walter Düring Orlob. Bà mẹ Maria Düring-Keller của ông cũng là người sáng chế ra Durgol – loại dung dịch dùng tẩy chất calci bị vôi hóa hiện được dùng rất phổ biến trên thế giới.
Phông chữ Helvetica (1957)
Hiện nay, phông chữ Helvetica được dùng rất phổ biến ở những nước sử dụng hệ thống ký tự Latinh, đặc biệt là trong báo chí, sách in, các trang web, cũng như không thể thiếu trong bộ phông chữ của máy vi tính.
Đây là phát minh của hai nhà thiết kế mỹ thuật người Thụy Sĩ Max Miedinger và Eduard Hoffmann vào năm 1957.
Cà phê hòa tan uống liền (1936)
Trước năm 1936, thế giới chưa có loại cà phê hòa tan uống liền (instant coffee) như hiện nay. Việc thưởng thức cà phê thời đó tốn nhiều thời gian với các khâu đun nước, cho cà phê bột vào phin, chờ cà phê rỏ xuống đầy tách, cho đường vào…
Năm 1929, một khối lượng rất lớn cà phê hạt thu hoạch được ở Brazil – quốc gia trồng cà phê nhiều nhất thế giới thời đó – không bán được sang thị trường tiêu thụ chủ lực là Mỹ vì nước này đang lâm vào cuộc Đại khủng hoảng kinh tế.
Do hạt cà phê không thể bảo quản được lâu nên Viện nghiên cứu cà phê Brazil đã liên hệ với hãng chế biến thực phẩm Nestlé của Thụy Sĩ nhờ hãng này nghiên cứu phương thức sản xuất một loại cà phê có thể hòa tan và bảo quản lâu dài để cứu ngành cà phê đang suy thoái.
Dù mất đến 5 năm nghiên cứu, các kỹ sư của Nestlé vẫn thất bại vì loại cà phê hòa tan trong nước của họ không giữ được hương vị đặc trưng của cà phê truyền thống. Nestlé đành bỏ cuộc nhưng một chuyên viên hóa học của họ, ông Max Morgenthaler, vẫn âm thầm theo đuổi việc nghiên cứu bằng tiền túi của mình.
Năm 1936, Morgenthaler đã thành công và chuyển giao bí quyết chế biến cho Nestlé và đến ngày 1-4-1938, loại cà phê hòa tan đầu tiên của thế giới mang thương hiệu Nestlé được tung ra thị trường và thành công rực rỡ.