ĐTC Phanxicô: Bắc cầu đối thoại với những người không cùng tôn giáo
Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu hãy mở lòng ra như Thánh Tông đồ, đối thoại với những người không cùng niềm tin tôn giáo, đừng bao giờ tấn kích nhau. Dù thời tiết Roma trong những ngày này có mưa giông và thay đổi thất thường, nhưng đã có hơn hơn 20.000 tín hữu tham dự buổi yết kiến chung với Đức Thánh Cha Phanxicô vào sáng thứ tư 06/11.
ĐTC Phanxicô: Bắc cầu đối thoại với những người không cùng tôn giáo
Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu hãy mở lòng ra như Thánh Tông đồ, đối thoại với những người không cùng niềm tin tôn giáo, đừng bao giờ tấn kích nhau.
Dù thời tiết Roma trong những ngày này có mưa giông và thay đổi thất thường, nhưng đã có hơn hơn 20.000 tín hữu tham dự buổi yết kiến chung với Đức Thánh Cha Phanxicô vào sáng thứ tư 06/11.
Mở đầu buổi tiếp kiến, cộng đoàn nghe đọc đoạn sách Công vụ Tông đồ 17,22-23, thuật lại việc Thánh Phaolô đến thành phố Athêna, đứng giữa Hội đồng Arêôpagô và nói cho người dân thành này biết vị thần vô danh họ đang thờ là ai. Trong bài giáo lý, Đức Thánh Cha đã giải thích về cách Thánh Phaolô tiếp cận với ngoại giáo bằng cách “bắc những cây cầu”, gặp gỡ và đối thoại. Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu hãy mở lòng ra như Thánh Tông đồ.
Dù thời tiết Roma trong những ngày này có mưa giông và thay đổi thất thường, nhưng đã có hơn hơn 20.000 tín hữu tham dự buổi yết kiến chung với Đức Thánh Cha Phanxicô vào sáng thứ tư 06/11.
Mở đầu buổi tiếp kiến, cộng đoàn nghe đọc đoạn sách Công vụ Tông đồ 17,22-23, thuật lại việc Thánh Phaolô đến thành phố Athêna, đứng giữa Hội đồng Arêôpagô và nói cho người dân thành này biết vị thần vô danh họ đang thờ là ai. Trong bài giáo lý, Đức Thánh Cha đã giải thích về cách Thánh Phaolô tiếp cận với ngoại giáo bằng cách “bắc những cây cầu”, gặp gỡ và đối thoại. Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu hãy mở lòng ra như Thánh Tông đồ.
Bắc cầu đối thoại
Đức Thánh Cha mở đầu bài giáo lý bằng việc nhắc lại bối cảnh đưa Phaolô đến thành Athêna và giáo huấn về Chúa Kitô, vị thần vô danh mà người Athêna đang thờ nhưng lại không biết. Đức Thánh Cha nói: Chúng ta hãy tiếp tục “hành trình” của chúng ta với sách Công vụ tông đồ. Sau các thử thách ở Philipphê, Thêxalônica và Bêroia, Phaolô đến Athêna, ngay chính ở trung tâm của Hy Lạp (x. Cv 17,15). Thành phố này, dù đang sống dưới bóng của vinh quang cổ xưa và bất chấp sự sa sút về chính trị, vẫn còn đang gìn giữ sự ưu việt của văn hoá. Tại đây, Thánh Tông đồ “nổi giận vì thấy thành phố nhan nhản những tượng thần” (Cv 17,16). Tuy nhiên, sự gặp gỡ với tà giáo không khiến Phaolô bỏ chạy, nhưng ngược lại, thúc đẩy ngài bắc một cây cầu đối thoại với nền văn hoá đó.
Nhìn thành phố dân ngoại với ánh mắt đức tin
Đức Thánh Cha giải thích cách làm của Phaolô: Phaolô chọn làm quen với thành phố và như thế bắt đầu đến những nơi và gặp những người quan trọng nhất. Ngài vào hội đường, biểu tượng của đời sống đức tin; ngài đến quảng trường, biểu tượng của đời sống chính trị và văn hoá. Ngài gặp gỡ người Do Thái, các triết gia thuộc các trường phái Khoái lạc và Khắc kỷ, và nhiều người khác nữa. Ngài gặp gỡ mọi người chứ không khép kín. Bằng cách đó, Phaolô quan sát nền văn hoá và bầu khí của Athêna “bắt đầu từ một ánh nhìn chiêm niệm” và từ đó khám phá “Thiên Chúa hiện diện trong các ngôi nhà của họ, trên đường phố của họ, tại các quảng trường của họ” (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, 71). Phaolô không nhìn thành phố Athêna và thế giới dân ngoại với sự thù địch nhưng bằng con mắt đức tin. Và điều này khiến chúng ta đặt câu hỏi về cách chúng ta nhìn các thành phố: chúng ta có quan sát chúng với sự thờ ơ không? Với sự khinh khi? Hay với đức tin, nhận ra những con cái Chúa giữa đám đông vô danh?
Đưa sứ điệp đức tin vào văn hoá
Phaolô chọn cái nhìn thúc đẩy ngài mở ra một khoảng cách giữa Tin Mừng và thế giới ngoại giáo. Đức Thánh Cha nhận xét: Ở trung tâm của một trong những tổ chức nổi tiếng nhất của thế giới cổ đại, Arêôpagô, ngài thực hiện một ví dụ phi thường về việc hội nhập văn hoá sứ điệp đức tin: ngài loan báo Chúa Giêsu Kitô cho những người tôn thờ thần tượng, và ngài không làm bằng cách tấn công họ, mà bằng cách trở thành “pontefice, người bắc cầu” (Bài giảng tại Nhà nguyện Thánh Marta, ngày 08/05/2013).
Thiên Chúa không trốn tránh ai tìm kiếm Người
Bắt đầu từ bàn thờ của thành phố dành cho “một vị thần vô danh” (Cv 17,23) – có một bàn thờ ghi “kính thần vô danh”, không có hình ảnh nào, không có gì, chỉ có dòng chữ viết, bắt đầu từ “lòng sùng đạo” đó để đồng cảm với người nghe, Phaolô tuyên bố rằng Thiên Chúa “sống giữa các công dân” (Niềm vui Tin Mừng, 71) và “không trốn tránh những người tìm kiếm Người bằng trái tim chân thành, mặc dù họ dò dẫm tìm kiếm Người” (sđd.). Đây chính là sự hiện diện mà Phaolô muốn bày tỏ: “Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17,23).
“Đấng chưa biết – nhưng đã biết”
Để nói cho người dân Athêna biết về căn tính của vị thần mà họ thờ lạy, Thánh Tông đồ bắt đầu từ công trình tạo dựng, nghĩa là từ đức tin trong Kinh Thánh về Thiên Chúa của mặc khải, để đi đến ơn cứu độ và phán xét, nghĩa là đi đến chính sứ điệp Kitô giáo. Ngài tỏ cho thấy sự không cân xứng giữa sự vĩ đại của Đấng Tạo Hoá và các đền thờ được con người xây dựng, và giải thích rằng Đấng Tạo Hoá luôn tìm cách để mọi người có thể tìm thấy Người. Theo cách này, theo một câu nói rất hay của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Phaolô “loan báo Đấng mà con người không biết, dù thực ra họ biết: “Đấng chưa biết – nhưng đã biết” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Cuộc gặp gỡ với thế giới văn hoá tại Học viện Bernadino, ngày 12/09/2008). Sau đó, Phaolô mời mọi người vượt qua “thời gian không nhận biết” và quyết định hoán cải vì ngày xét xử sắp xảy đến. Phaolô nói đến kerigma, lời rao giảng tiên khởi, và ám chỉ đến Chúa Kitô, mà không trưng dẫn Người, bằng cách xác định đó là “người mà Thiên Chúa đã chỉ định, để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho vị này sống lại từ cõi chết” (Cv 17,31).
Tin Mừng đâm rễ
Lời rao giảng của Phaolô cho đến lúc đó đã làm cho những người đối thoại nín thở để nghe, vì đó là một khám phá lý thú, giờ đây gặp phải tảng đá: cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô như là “sự điên rồ” (1 Cr 1,23) và khơi dậy sự nhạo báng chế giễu. Phaolô sau đó bỏ đi: nỗ lực của ngài tưởng như đã thất bại, nhưng ngược lại, một số người tin lời ngài và mở lòng ra với đức tin. Trong số này có một người đàn ông, Diônixiô, một thành viên của Arêôpagô, và một phụ nữ tên Damaria. Cũng tại Athêna, Tin Mừng đâm rễ và có thể được xướng lên với hai cung giọng: của người nam và người nữ!
Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu: Chúng ta cũng cầu xin Chúa Thánh Thần dạy chúng ta bắc những cây cầu với nền văn hoá, với những người không có đức tin và với những người có đức tin khác với chúng ta. Luôn luôn xây dựng những cây cầu, luôn luôn mở rộng bàn tay, không có điều gì tấn kích. Chúng ta xin Người ban cho chúng ta khả năng hội nhập văn hoá với sự tế nhị của sứ điệp đức tin, bằng cách nhìn những người chưa biết Chúa Kitô bằng cái nhìn suy chiêm, được hướng dẫn bởi tình yêu có thể đốt nóng ngay cả những trái tim cứng cỏi nhất.
Nhìn thành phố dân ngoại với ánh mắt đức tin
Đức Thánh Cha giải thích cách làm của Phaolô: Phaolô chọn làm quen với thành phố và như thế bắt đầu đến những nơi và gặp những người quan trọng nhất. Ngài vào hội đường, biểu tượng của đời sống đức tin; ngài đến quảng trường, biểu tượng của đời sống chính trị và văn hoá. Ngài gặp gỡ người Do Thái, các triết gia thuộc các trường phái Khoái lạc và Khắc kỷ, và nhiều người khác nữa. Ngài gặp gỡ mọi người chứ không khép kín. Bằng cách đó, Phaolô quan sát nền văn hoá và bầu khí của Athêna “bắt đầu từ một ánh nhìn chiêm niệm” và từ đó khám phá “Thiên Chúa hiện diện trong các ngôi nhà của họ, trên đường phố của họ, tại các quảng trường của họ” (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, 71). Phaolô không nhìn thành phố Athêna và thế giới dân ngoại với sự thù địch nhưng bằng con mắt đức tin. Và điều này khiến chúng ta đặt câu hỏi về cách chúng ta nhìn các thành phố: chúng ta có quan sát chúng với sự thờ ơ không? Với sự khinh khi? Hay với đức tin, nhận ra những con cái Chúa giữa đám đông vô danh?
Đưa sứ điệp đức tin vào văn hoá
Phaolô chọn cái nhìn thúc đẩy ngài mở ra một khoảng cách giữa Tin Mừng và thế giới ngoại giáo. Đức Thánh Cha nhận xét: Ở trung tâm của một trong những tổ chức nổi tiếng nhất của thế giới cổ đại, Arêôpagô, ngài thực hiện một ví dụ phi thường về việc hội nhập văn hoá sứ điệp đức tin: ngài loan báo Chúa Giêsu Kitô cho những người tôn thờ thần tượng, và ngài không làm bằng cách tấn công họ, mà bằng cách trở thành “pontefice, người bắc cầu” (Bài giảng tại Nhà nguyện Thánh Marta, ngày 08/05/2013).
Thiên Chúa không trốn tránh ai tìm kiếm Người
Bắt đầu từ bàn thờ của thành phố dành cho “một vị thần vô danh” (Cv 17,23) – có một bàn thờ ghi “kính thần vô danh”, không có hình ảnh nào, không có gì, chỉ có dòng chữ viết, bắt đầu từ “lòng sùng đạo” đó để đồng cảm với người nghe, Phaolô tuyên bố rằng Thiên Chúa “sống giữa các công dân” (Niềm vui Tin Mừng, 71) và “không trốn tránh những người tìm kiếm Người bằng trái tim chân thành, mặc dù họ dò dẫm tìm kiếm Người” (sđd.). Đây chính là sự hiện diện mà Phaolô muốn bày tỏ: “Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17,23).
“Đấng chưa biết – nhưng đã biết”
Để nói cho người dân Athêna biết về căn tính của vị thần mà họ thờ lạy, Thánh Tông đồ bắt đầu từ công trình tạo dựng, nghĩa là từ đức tin trong Kinh Thánh về Thiên Chúa của mặc khải, để đi đến ơn cứu độ và phán xét, nghĩa là đi đến chính sứ điệp Kitô giáo. Ngài tỏ cho thấy sự không cân xứng giữa sự vĩ đại của Đấng Tạo Hoá và các đền thờ được con người xây dựng, và giải thích rằng Đấng Tạo Hoá luôn tìm cách để mọi người có thể tìm thấy Người. Theo cách này, theo một câu nói rất hay của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Phaolô “loan báo Đấng mà con người không biết, dù thực ra họ biết: “Đấng chưa biết – nhưng đã biết” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Cuộc gặp gỡ với thế giới văn hoá tại Học viện Bernadino, ngày 12/09/2008). Sau đó, Phaolô mời mọi người vượt qua “thời gian không nhận biết” và quyết định hoán cải vì ngày xét xử sắp xảy đến. Phaolô nói đến kerigma, lời rao giảng tiên khởi, và ám chỉ đến Chúa Kitô, mà không trưng dẫn Người, bằng cách xác định đó là “người mà Thiên Chúa đã chỉ định, để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho vị này sống lại từ cõi chết” (Cv 17,31).
Tin Mừng đâm rễ
Lời rao giảng của Phaolô cho đến lúc đó đã làm cho những người đối thoại nín thở để nghe, vì đó là một khám phá lý thú, giờ đây gặp phải tảng đá: cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô như là “sự điên rồ” (1 Cr 1,23) và khơi dậy sự nhạo báng chế giễu. Phaolô sau đó bỏ đi: nỗ lực của ngài tưởng như đã thất bại, nhưng ngược lại, một số người tin lời ngài và mở lòng ra với đức tin. Trong số này có một người đàn ông, Diônixiô, một thành viên của Arêôpagô, và một phụ nữ tên Damaria. Cũng tại Athêna, Tin Mừng đâm rễ và có thể được xướng lên với hai cung giọng: của người nam và người nữ!
Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu: Chúng ta cũng cầu xin Chúa Thánh Thần dạy chúng ta bắc những cây cầu với nền văn hoá, với những người không có đức tin và với những người có đức tin khác với chúng ta. Luôn luôn xây dựng những cây cầu, luôn luôn mở rộng bàn tay, không có điều gì tấn kích. Chúng ta xin Người ban cho chúng ta khả năng hội nhập văn hoá với sự tế nhị của sứ điệp đức tin, bằng cách nhìn những người chưa biết Chúa Kitô bằng cái nhìn suy chiêm, được hướng dẫn bởi tình yêu có thể đốt nóng ngay cả những trái tim cứng cỏi nhất.
Hồng Thuỷ