Chúa Nhật XXIX TN B – 2024
Hội nhập văn hoá để loan báo Tin Mừng
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong thư ngày 17/7/2024 mới đây, khi bàn về “vai trò của văn chương trong việc đào tạo linh mục, tu sĩ và Kitô hữu”, đã nhắc nhở ta về việc hội nhập văn hoá (x. số 10-11) để có thể loan báo một Đức Giêsu đích thực cho mọi người và giúp họ gặp gỡ được Người trong thân xác con người cũng như trong lịch sử hiện tạ
Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, HKK
Lời mở
Hôm nay là Chủ Nhật Truyền giáo, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta nhận thức rõ hơn về sứ mệnh loan báo Tin Mừng của từng tín hữu Kitô và bản chất truyền giáo của Giáo Hội. Tuy nhiên công cuộc này chưa có hiệu quả ở Việt Nam cũng như ở nhiều nơi trên thế giới. Các số liệu thống kê của Giáo Hội cũng như của các tổ chức khác đã chứng minh điều đó. Vì thế, chúng ta cùng tìm hiểu nguyên nhân bắt nguồn từ đâu và cần phải làm gì để truyền giáo hiệu quả.
1. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc không đổi mới ngôn ngữ để hội nhập văn hoá
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XIII năm 2012 với chủ đề “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin Kitô” yêu cầu ta đổi mới ngôn ngữ vì muốn cho con người ngày nay nghe và hiểu, chúng ta phải dùng ngôn ngữ của họ. Đó cũng là yêu cầu của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI năm 2021 nhắc ta phải “đồng hành”.
Chúng ta hãy nhìn vào các sân vận động, các tụ điểm giải trí ở nhiều nước Âu Mỹ trong những ngày cuối tuần đông nghịt người tham dự, trong khi nhà thờ rộng lớn chỉ lèo tèo vài chục ông già, bà lão trong một góc nhỏ dự lễ, ta mới thấy mình cần phải đổi mới ngôn ngữ truyền giáo. Giới trẻ ngày nay thờ ơ với tôn giáo, nhất là Kitô giáo, bởi vì con người thời nay chú tâm vào khoa học với những lý chứng cụ thể, vào những nhu cầu vật chất cần thiết mỗi ngày, vào thể xác làm sao cho khoẻ đẹp, vào tâm hồn sao cho an vui hạnh phúc, vào các thần tượng hiển hiện ngay trước mắt qua các diễn viên, nghệ sĩ, cầu thủ, danh nhân thành đạt thế chỗ cho các nhà tu hành, đạo đức, triết học, thần học của các thế kỷ qua.
Đáng lẽ chúng ta phải là chứng nhân của Chúa Giêsu và nói về Người bằng ngôn ngữ của thời đại như các tông đồ xưa, thì ta lại được dạy bảo cứ dùng thứ ngôn ngữ “kinh điển” của thời trung cổ, cận đại trong các trường lớp, tu viện và chủng viện, để bảo đảm là ta giữ đúng truyền thống đức tin. Có lẽ vì thế mà ta ngại ngùng, không biết phải nói về Chúa Giêsu như thế nào để thu phục người nghe. Chúng ta ít quan tâm đến việc hội nhập văn hoá của thời đại mới như Công đồng Vaticanô II đã dạy.
Tiếp nối định hướng của Công đồng, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã nhấn mạnh đến văn hoá và việc hội nhập văn hoá hàng trăm lần trong tông huấn “Giáo Hội tại châu Á”, công bố ngày 6/11/1999 tại New Dehli, Ấn Độ. Ngài nhắc nhở rằng: “Nhờ hội nhập văn hoá, Giáo Hội sẽ trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn, giúp người ta hiểu được bản chất của mình, đồng thời Giáo Hội cũng trở thành một dụng cụ đắc lực hơn để thi hành sứ mệnh” (x. Tông huấn số 21; Tông thư Sứ vụ Đấng Cứu thế, số 52, năm 1991).
Việc giới thiệu Đức Giêsu và Tin Mừng cứu độ của Người cho một cá nhân hay cho một dân tộc tuỳ thuộc vào trình độ văn hoá của cả người nói lẫn người nghe. Người nói phải có đủ trình độ nhất định để có thể chọn lựa từ ngữ thích hợp theo đúng ngôn ngữ của người nghe, cũng như phải hành động tích cực theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần thì mới hy vọng truyền giáo kết quả. Lịch sử truyền giáo của Giáo hội Công giáo toàn cầu cũng như ở Việt Nam đã chứng minh cho ta thấy: càng hội nhập văn hoá, việc truyền giáo càng hiệu quả (x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Hội nhập văn hoá để loan báo Tin Mừng, NXB Đồng Nai, 2024, tr.34-67).
Hoạt động truyền giáo này cũng tương tự như mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu. Người là Ngôi Lời Thiên Chúa vô hình đã mang lấy thân xác, hoà nhập vào thế giới hữu hình, đón nhận nền văn hoá cụ thể của dân tộc Do Thái để rao giảng về Chúa Cha và giới thiệu con đường sự thật và sự sống cho nhân loại. Người cũng dùng cách suy nghĩ, các từ ngữ, tâm tình, hành vi của con người cùng thời với mình để loan báo Tin Mừng cứu độ và truyền cho các môn đệ tiếp tục công trình này. Đây là hoạt động gọi là hội nhập văn hoá, nghĩa là đem những giá trị vô cùng cao quý của Thiên Chúa hoà nhập vào đời sống con người và biến đổi những giá trị tốt đẹp của con người thành cao quý, siêu việt của Thiên Chúa.
2. Nên làm gì để truyền giáo hiệu quả?
Chúng ta thử tưởng tượng nếu Đức Giêsu không mang một thân xác cụ thể, không dùng ngôn ngữ Do Thái mà dùng tiếng La Tinh của người Rôma đang cai trị toàn cầu vào thời điểm đó, không nói những lời đầy uy quyền để dạy sự thật, không làm những phép lạ để giúp cho người đói được no nê, người bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, người bị ma quỷ kiềm chế được giải thoát, người chết được sống lại và chính Người không tự nguyện chết nhục nhã trên thập giá để đền tội thay cho muôn loài và sống lại để phục hồi sự sống vĩnh hằng, thì ai sẽ tin vào Tin Mừng của Người?
Tuy nhiên, rất nhiều người chúng ta lại đang giới thiệu một Đức Giêsu “phi xác thể” (x. Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium, số 89; thư ngày 17/7/2024, số 14) hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ thời đại như thể Người đến từ một hành tinh xa lạ nào đó ngoài vũ trụ, với những lời rao giảng không dùng những sự thật của khoa học để chứng minh, mà chỉ để cổ vũ những phong trào đạo đức gồm các nghi lễ hình thức bên ngoài, không củng cố lời rao giảng bằng những hành động đầy quyền năng như Chúa Giêsu và môn đệ trước đây, không chứng minh một tình yêu đến cùng để sẵn sàng chịu chết và sống lại như Người thì làm sao con người thời nay tin theo lời chúng ta được?
Các bài đọc Thánh Kinh hôm nay như gợi ý cho ta về tình yêu tuyệt vời đó. “Đức Chúa đã muốn người tôi trung phải bị nghiền nát vì đau khổ… Nhờ đó Người sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (x. Is 53,10-11). “Chúng ta có một vị Thượng tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vị đó không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (x. Dt 4,14-16). Chính Chúa Giêsu đã xác định con đường tình yêu này: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (x. Mc 10,45).
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong thư ngày 17/7/2024 mới đây, khi bàn về “vai trò của văn chương trong việc đào tạo linh mục, tu sĩ và Kitô hữu”, đã nhắc nhở ta về việc hội nhập văn hoá (x. số 10-11) để có thể loan báo một Đức Giêsu đích thực cho mọi người và giúp họ gặp gỡ được Người trong thân xác con người cũng như trong lịch sử hiện tại, “xác thân ấy bao gồm các khát vọng, các tình cảm và các cảm quan, là những lời thách thức và an ủi, là những bàn tay đụng chạm và chữa lành, là những cái nhìn giải phóng và khích lệ, xác thân ấy bao gồm sự nồng nhiệt, tha thứ, phẫn nộ, can đảm, mạnh dạn, tắt một lời, đó là yêu thương” (số 14).
Thật ra, những khám phá mới nhất của khoa học về con người trong khoảng 20 năm gần đây như công thức di truyền của loài người bao gồm 3 tỉ base của ADN (axit deoxyribonucleic) trong 23 cặp nhiễm sắc thể với hơn 20 ngàn gen, cấu trúc nguyên tử với các hạt nhân proton và electron trong mỗi tế bào thay đổi không ngừng trong khi con người vẫn là một chủ thể biết yêu thương, suy nghĩ và hành động lâu dài,… càng giúp con người thời nay dễ dàng tìm về nguồn hiện hữu, vượt qua những lầm lẫn mà giả thuyết tiến hoá của Darwin gây ra cho nhân loại. Đây cũng là ngôn ngữ thời đại mà chúng ta cần phải nói nhiều hơn với các bạn trẻ để giới thiệu Đức Giêsu.
Lời kết
Xin Chúa Giêsu cho chúng con trở nên tông đồ nhiệt thành mở Nước Chúa Trời. Amen.