Bài giảng Thánh lễ Lòng Chúa Thương Xót của ĐTC Phanxicô
Quay trở lại với các môn đệ, họ đã bỏ rơi Chúa trong cuộc Khổ Nạn, và cảm thấy có lỗi. Nhưng khi gặp họ, Đức Giêsu chẳng hề huấn giáo dài dòng. Đối với các ông, những người đang mang vết thương lòng, Đức Giêsu cho họ thấy những thương tích của chính Ngài. Tôma có thể đụng chạm vào những thương tích ấy và khám phá ra tình yêu, khám phá ra Đức Giêsu đã đau khổ nhiều như thế nào khi bị ông bỏ rơi. Cũng chính nơi những thương tích ấy, bàn tay của Tôma đã đụng chạm được sự thân mật dịu dàng của Thiên Chúa. Tôma, kẻ đến muộn, khi ôm lấy lòng thương xót, lại trở nên trổi vượt hơn so với các môn đệ khác, vì ông không chỉ tin vào sự phục sinh mà còn tin vào tình yêu vô ngần vô hạn của Thiên Chúa. Và ông đã tuyên xưng đức tin cách đơn sơ nhất nhưng cũng đẹp đẽ nhất: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (c. 28). Như thế, sự phục sinh của người môn đệ được thực hiện khi bản tính con người yếu đuối mỏng dòn và tổn thương được hòa vào sự phục sinh của Đức Giêsu. Ở nới đó mọi hoài nghi được hóa giải, Thiên Chúa trở thành Chúa của con, và cũng chính ở đó, người môn đệ bắt đầu chấp nhận chính mình và biết yêu thương cuộc đời mình.
Anh chị em thân mến, khi phải trải qua thử thách, chúng ta cũng thấy mình yếu đuối mỏng dòn, có những sợ hãi và hoài nghi giống như Tôma. Chúng ta cần đến Thiên Chúa, là Đấng có thể nhìn vượt lên trên những yếu đuối mỏng dòn để thấy nơi chúng ta vẻ đẹp tuyệt mỹ không gì có thể thay thế được. Có Chúa, chúng ta tái khám khá rằng chúng ta thật đáng quý ngay chính trong những yếu đuối của mình. Điều ấy có nghĩa rằng chúng ta là những viên pha lê tuyệt đẹp, vừa dễ vỡ nhưng cũng rất đáng quý. Và nếu là những viên pha lê, chúng ta trở nên trong suốt khi ở bên Thiên Chúa, để ánh sáng của Ngài, ánh sáng của lòng thương xót, tỏa sáng nơi ta, và ngang qua ta đến tận cùng thế giới. Và đây chính là lý do, như Thư của thánh Phêrô đã nhắc nhở, “chúng ta được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách” (1 Pr 1, 6).
Trong thánh lễ Lòng Chúa Thương Xót hôm nay, thông điệp đẹp nhất lại đến với chúng ta ngang qua người môn đệ đến trễ ấy. Hôm đó, chỉ thiếu mỗi Tôma. Và Thiên Chúa đã đợi ông. Lòng thương xót chẳng hề bỏ rơi những ai đang tụt lại phía sau. Giờ đây khi chúng ta đang nghĩ về sự hồi phục chậm chạm và mệt mỏi sau cơn đại dịch, thì lại có một mối nguy hiểm khác len lỏi vào: đó chính là quên đi người bị bỏ lại phía sau. Cái tôi cá nhân thờ ơ bàng quan còn nguy hại hơn sự công phá của vi-rút. Cái tôi ấy cho rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn nếu tôi cảm thấy tốt đẹp, mọi sự đều hoàn hảo nếu mọi sự ấy đều hoàn hảo với tôi. Người ta khởi đi từ ý tưởng lệch lạc này để rồi dẫn đến việc chọn lựa và phân biệt người khác, loại bỏ những người nghèo khổ, và sẵn sàng hy sinh những ai tụt hậu trong tiến trình phát triển. Tuy nhiên, đại dịch này nhắc nhở chúng ta rằng không có sự khác biệt và ranh giới giữa những ai đang sầu khổ. Tất cả chúng ta đều yếu đuối mỏng dòn, tất cả đều bình đẳng, tất cả đều đáng quý. Những gì đang xảy ra thức tỉnh chúng ta: đây là thời gian để xóa bỏ đi những bất bình đẳng, để chữa lành sự bất công đang làm hao mòn đến tận gốc rễ sức khoẻ của toàn thể nhân loại! Chúng ta hãy học hỏi từ cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, được mô tả trong sách Công vụ Tông Đồ. Họ đã lãnh nhận lòng thương xót và sống lòng thương xót ấy: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu.” (Cv 2,44-45). Đây không phải là một thứ chủ nghĩa lý tưởng, nhưng chính là Kitô giáo.
Nơi cộng đoàn đó, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, chỉ cần một người bị bỏ lại phía sau, tất cả những người khác sẽ chờ đợi. Ngày hôm nay có vẻ như ngược lại: chỉ một phần nhỏ nhân loại đang tiến lên phía trước, trong khi đó phần lớn bị bỏ lại phía sau. Ai cũng có thể biện minh rằng: “Đây là những vấn đề hết sức phức tạp. Chăm sóc người nghèo không phải việc của tôi. Những người khác phải suy nghĩ về điều đó chứ không phải tôi!”. Thánh nữ Faustina, sau khi gặp Chúa Giêsu, đã viết: “Nơi một linh hồn đau khổ, chúng ta phải nhìn thấy Đức Giêsu chịu đóng đinh, chứ không phải một kẻ ăn bám hay một gánh nặng… Thiên Chúa trao cho chúng ta cơ hội để thực hiện những công việc của lòng thương xót, nhưng chúng ta lại đi phán xét.” (Nhật ký, 6 tháng 9 năm 1937). Nhưng vào ngày nọ, chính thánh nữ đã than phiền với Chúa Giêsu rằng, để có lòng thương xót, chúng ta phải vượt qua sự ngây thơ. Thánh nữ viết: “Lạy Chúa, nhiều người thường lạm dụng lòng tốt của con.” Và Chúa Giêsu trả lời: “Không quan trọng, con của ta, đừng để tâm đến điều đó, con hãy xót thương tất cả mọi người.” (24 tháng 12 năm 1937). Đối với mọi người, chúng ta đừng chỉ nghĩ đến lợi ích của mình, hay những ích lợi của đảng phái. Chúng ta hãy đón lấy thách đố này như một cơ hội để chuẩn bị cho tương lai của tất cả mọi người. Bởi vì nếu không có một tầm nhìn chung, sẽ chẳng có tương lai cho ai cả.
Ngày hôm nay, tình yêu không tự vệ và bất bạo lực của Đức Giêsu đã làm hồi sinh trái tim của người môn đệ. Giống như Tông đồ Tôma, chúng ta cũng đón nhận lòng thương xót, ơn cứu độ của nhân loại. Và chúng ta sử dùng lòng thương xót ấy với những ai yếu đuối nhất, chỉ như thế chúng ta mới có thể tái dựng lại một thế giới mới.
Nguồn: https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-04/bai-giang-le-long-chua-thuong-xot-dtc-phanxico.html