18/11/2024

Giảng tĩnh tâm năm cho các nữ đan sĩ Xitô

Từ ngày 2/6 đến ngày 13/6/2019, Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã giảng tĩnh tâm năm cho các chị em của Đan viện Xitô Thánh Mẫu Vĩnh Phước, theo Đề tài “Yêu và sống như Đức Giêsu Kitô”.Xin chia sẻ với anh chị em các bài suy niệm cho những ai muốn sống và yêu như Chúa Giêsu.

 

Giảng tĩnh tâm năm cho các nữ đan sĩ

                     Từ ngày 2/6 đến ngày 13/6/2019, Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã giảng tĩnh tâm năm cho các chị em của Đan viện Xitô Thánh Mẫu Vĩnh Phước, Nhà Mẹ, ở số 105/10, Kp. 9 , P. Tân Hoà, Biên Hoà, Đồng Nai. Đề tài “Yêu và sống như Đức Giêsu Kitô”. Xin chia sẻ với anh chị em các bài suy niệm cho những ai muốn sống và yêu như Chúa Giêsu. Cầu chúc anh chị em luôn an lành và dồi dào ơn Chúa. Luôn cầu cho nhau.

 

Lời mở đầu
cho tuần tĩnh tâm hằng năm

Tại Đan viện Xitô Thánh Mẫu Vĩnh Phước,
105/10, Kp. 9 , P. Tân Hoà, Biên Hoà, Đồng Nai
                     Từ ngày 2/6 đến ngày 13/6/2019

 

Các chị em thân mến,

Chúng ta sắp sửa tĩnh tâm hằng năm. Tuần tĩnh tâm này có chủ đề “Sống và yêu như Chúa Giêsu” vì chúng ta muốn trở về với nguồn sống, nguồn tình yêu và ân sủng của mình là Chúa Giêsu Kitô để kín múc nơi Người cũng như để chia sẻ cho anh chị em mình trong cuộc đời tận hiến.

Tôi không phải là một đan sĩ để có thể giúp các chị em về đời sống cầu nguyện và chiêm niệm. Tôi không phải là một tu sĩ của một dòng nào đó để giúp các chị em về những lời khấn như khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục kèm thêm 2 lời khấn cải tiến và vĩnh cư của các tu sĩ Xitô. Tôi cũng chẳng phải là một kỹ sư thuộc một ngành nào đó để giúp các chị em về “lao động chân tay hay khối óc” như khẩu hiệu của dòng “Cầu nguyện và lao động”.

Tôi chỉ là một linh mục triều được Viện Mẫu mời đến để giúp các chị em theo đề tài “sống và yêu như Chúa Giêsu” khi chia sẻ với các chị em một vài hiểu biết và kinh nghiệm của đời mình, để qua đó, Chúa Thánh Thần sẽ thúc đẩy từng chị em theo sự soi sáng của Ngài.

Tôi là linh mục Antôn nguyễn Ngọc Sơn, 71 tuổi. Sau khi tốt nghiệp tại Giáo Hoàng Học viên Thánh Piô X Đà Lạt và thụ phong linh mục 21-12-1974, tôi trở về Sài Gòn ngày 20-3-1975. Lúc đó, tình hình chính trị và quân sự tại Miền Nam Việt Nam hết sức hỗn loạn. Hàng triệu người đổ vào Sài Gòn tìm sự an toàn vì Miền Tây Nguyên và Miền Trung đã bị mất vào tay quân đội Cộng Sản. Họ cắm lều dọc theo miền Hố Nai Biên Hoà, trong vùng đất mà các chị em đang sống. Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận lúc đó là chủ tịch Uỷ ban Bác ái Xã hội của Hội đồng Giám mục Việt Nam sai tôi lo giúp đỡ những đồng bào này vì lúc đó tôi đang làm Phó Giám đốc Caritas Việt Nam dưới quyền cha Giám đốc Phêrô Trương Trãi.

Mỗi ngày, chúng tôi lo cho họ gạo, thức ăn, nước uống, thuốc men. Không phải chỉ 1 bữa mà suốt từ 25/3 đến 28/4-1975, khi quân đội Việt Nam Cộng hoà buông súng thì các trại này mới giải tán. Cho đến hôm nay, thú thực với các chị em, tôi cũng không biết gạo, thức ăn, thuốc men ở đâu ra cho hơn nửa triệu người đó. Phép lạ hoá bánh ra nhiều đầu tiên của Chúa Giêsu trong đời tôi. Rồi bao phép lạ khác để cứu giúp những đồng bào thiểu số nghèo khổ hơn 20 năm trong chương trình “đổi gùi củi lấy gùi gạo” với Đức cha Alexis Phạm Văn Lộc ở Kontum, chương trình cứu chữa những người bệnh, người tàn tật, trẻ mồ côi cho đến ngày hôm nay. Quả thật, Đức Giêsu vẫn đang sống giữa chúng ta để dạy chúng ta sống và yêu như Người.

Vì thế trong tuần tĩnh tâm này, chúng tôi muốn mời gọi các chị em tìm về nguồn sống của chúng ta là Chúa Cha và quyết tâm đi theo con đường sự thật và sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta sẽ tập trung học hòi để xác tín vào cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu trong cuộc đời mình. Chúng ta sẽ cùng nhau ôn lại những giá trị của đời sống qua những hành động rất cụ thể thường ngày như suy tư, hít thờ, ăn uống, học hành, nói năng, làm việc, vui chơi… Tất cả đều nhằm mục đích là xây dựng nền văn minh tình yêu bằng nền văn hoá sự sống theo Kitô giáo.

Đây là điểm hướng tới được trình bày trong các văn kiện của Giáo Hội toàn cầu, từ Công đồng Vaticanô II đến nay, qua các tài liệu chính thức như Hiến chế Gaudium et Spes (1965), Giáo lý Hội Thánh Công giáo (1992), Tóm lược Học thuyết Xã hội của Hội Thánh Công giáo (2004)…, cũng như trong giáo huấn của các giáo hoàng gần đây như Thánh Gioan XXIII, Thánh Phaolô VI, Thánh Gioan Phaolô II, Bênêđictô XVI, Phanxicô. Giáo hội Việt Nam, qua Đại hội Dân Chúa năm 2010, cũng đã trình bày đường hướng này trong Thư chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010, với chủ đề: “Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống”, công bố ngày 01/05/2011.

Thật vậy, người Công giáo Việt Nam ngày nay cần phải trình bày cho đồng bào mình bản sắc văn hoá Công giáo, mà cha ông chúng ta đã tốn nhiều công sức và hy sinh cả mạng sống để giới thiệu và chứng minh bản sắc này. Trong hàng ngàn năm qua, kể từ thời bị người Trung Quốc đô hộ cho đến khi thiết lập nền dân chủ (năm 111 TCN đến năm 1945), nước ta theo chế độ quân chủ chuyên chế, vua có toàn quyền sinh sát trong tay, xã hội phong kiến, nam nữ bất bình đẳng, hôn nhân đa thê, dân tộc lạc hậu, chữ viết lệ thuộc người Tầu với chữ Hán, chữ Nôm và cách học từ chương nên văn hoá khó phá triển, khoa học lạc hậu. Người Công giáo Việt Nam, từ năm 1615 trở đi, đã giới thiệu một nền văn hoá mới, lấy tình yêu Thiên Chúa là nền tảng, và các giá trị mới về chính quyền dân chủ, về bình đẳng nam nữ, về gia đình một vợ một chồng, về khoa học tiến bộ, về chữ Việt viết theo ngôn ngữ Latinh dễ dàng tiếp cận văn hoá và khoa học của toàn thể nhân loại…

Tuy nhiên, khi cả dân tộc Việt Nam đón nhận những giá trị này, thì rất nhiều người tín hữu Công giáo Việt đã dừng lại, tự mãn về những gì mình đóng góp cho dân tộc, không tiếp tục con đường tình yêu, sự thật và sự sống của Chúa Giêsu Kitô để giới thiệu những giá trị mới cho đồng bào. Họ chọn cách sống thụ động, cầu an.

Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong buổi triều yết Đức Giáo hoàng Phanxicô, ngày 5/3/2018, dịp đi Ad Limina ở Rôma, đã nói đến điều này trước toàn thể Giáo Hội rằng: “Sau hàng nửa thế kỷ phải trải qua những giờ phút đầy thử thách của một cuộc chiến tranh ý thức hệ (1920-1975), giờ đây chúng con đang phải đương đầu với một cuộc chiến mới: cuộc chiến chống lại tinh thần cầu an. Những cuộc bách hại nếu đã tôi luyện đức tin của chúng con, thì về phương diện nhân loại, cũng khiến chúng con rơi vào tình trạng thủ thân, khép kín. Vì thế mà từ khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, con số bảy triệu người Kitô hữu tại Việt Nam hầu như không gia tăng” (x. Diễn từ triều yết của TGM Giuse Nguyễn Chí Linh tại Rôma, ngày 5/3/2018).

Thái độ sống cầu an này đã gây nên những tổn hại lớn lao cho dân tộc. Ai cũng thấy nền đạo đức, luân lý của xã hội Việt Nam đang xuống dốc với đủ loại tội ác ghê rợn được thông báo hằng ngày trên các phương tiện truyền thông xã hội. Thái độ đó cũng làm cho chính đồng bào Công giáo Việt Nam mất đi ảnh hưởng tốt đẹp và vị trí đặc biệt trong lòng dân tộc khiến từ năm 1885 đến nay, tỷ lệ dân số theo đạo Công giáo vẫn giữ nguyên 7% dân số.

Nếu người Công giáo Việt Nam chúng ta quyết tâm sống theo bản sắc tích cực của mình để xây dựng nền văn minh tình yêu bằng nền văn hoá sự sống, chúng ta chắc chắn sẽ làm cho đất nước Việt Nam phát triển về mọi mặt, dân tộc ta sẽ giàu mạnh, hưởng được tự do và hạnh phúc hơn nhiều. Điều này anh chị em Công giáo Hàn Quốc đã thực hiện được cho dân tộc mình trong vòng 50 năm qua, để từ một nước nghèo khổ, lạc hậu, thua xa Việt Nam Cộng hoà vào những năm 1960-1970, bây giờ đang là một trong mười nước phát triển hàng đầu thế giới. Tỷ lệ người tín hữu Kitô Hàn quốc từ năm 1949 là 1% dân số đã tăng lên tới 32% dân số vào năm 2015, trong đó người Công giáo là 13%.

Chính trong tinh thần đó, chúng tôi sẽ trình bày tiến trình xây dựng bản sắc Công giáo Việt Nam theo 20 đề tài sau đây:

1. Con đường tình yêu mở rộng cho mọi người

2. Đức Giêsu Kitô là con đường sự thật và sự sống

3. Tại sao người ta ít hiểu biết về Chúa Giêsu Kitô

4. Xác tín trọn vẹn vào Đức Giêsu Kitô

5. Gắn bó với Chúa Giêsu trong cái chết của Người

6. Loan báo Đức Giêsu Phục Sinh với niềm xác tín

7. Thở được linh khí của Trời

8. Giải nghĩa được tình yêu

9. Nền văn hoá toàn diện và liên đới

10. Cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử dân tộc Việt Nam

11. Cuộc hội nhập văn hoá của các tín hữu Công giáo thời trước

12. Nói lời sự sống

13. Lập kế hoạch sống

14. Sống đẹp từng giây phút trong đời.

15. Đi tìm nguồn đẹp

16. Ăn để thăng hoa

17. Học với Người Thầy tuyệt vời

18. Văn hoá chữ viết

19. Thể thao như một lĩnh vực của Tân Phúc Âm

20. Suy nghĩ về cái chết

Cầu chúc các chị em luôn an lành, mạnh khoẻ, tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần và gặp được Đức Giêsu để sống và yêu như Người.

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài 1

Con đường tình yêu
mở rộng cho tất cả mọi người

 

Lời mở

Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ “Vui mừng và Hy vọng” đã xác định rằng: “ Đối với những ai tin vào tình yêu Thiên Chúa, Người cho họ xác tín rằng con đường tình yêu mở rộng cho tất cả mọi người[1], vì Thiên Chúa đã đặt tình yêu vào trong lòng con người như một dấu hiệu đặc biệt khi dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài.

1.1. Một Trời yêu thương

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, dân tộc Việt Nam chúng ta tin vào Trời. Niềm tin ấy được diễn tả trong đời sống hằng ngày, trong những nghi lễ của vua chúa trên Tế đàn Nam Giao cũng như trong các lễ hội dân gian, được lưu trữ trong kho tàng văn hoá dân tộc qua những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích về bánh chưng, bánh giầy…

Trời không phải chỉ là khoảng không gian xanh thẳm trên đầu (Trời cao có mắt), nhưng là một Đấng quyền phép vô song, tạo dựng nên vạn vật (Trời sinh, Trời dưỡng; Con chim nó hót trên cành, Nếu Trời không có, có mình làm sao, Con chim nó hót trên cao, Nếu Trời không có, làm sao có mình?), nhìn thấu mọi sự và soi thấu lòng dạ khôn dò của con người (Trời nào có phụ ai đâu, Hay làm thì giầu, có chí thì nên). Vì thế, người ta cầu Trời ban cho mình những thứ cần thiết (Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp…). Trời là gương mẫu cho người ta noi theo, tạo thành một nền luân lý gọi là “đạo Trời” để con người tuân giữ (Dù ai nói ngược, nói xuôi, Ta đây vẫn giữ đạo Trời khăng khăng). Tất cả đều diễn tả tình yêu thương của Trời đối với muôn loài.

Khi đạo Công giáo được các thừa sai dòng Tên chính thức truyền vào Việt Nam trong khoảng năm 1615-1665, các ngài đã dạy cho dân tộc Việt Nam về đạo Trời đó, nhất là trong cuốn giáo lý Phép Giảng Tám Ngày của linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes). Trong cuốn sách đầu tiên được in bằng chữ quốc ngữ này, cha Đắc Lộ gọi Trời là Đức Chúa Trời[2] . Nhiều bản kinh chúng ta vẫn còn đang giữ tên gọi đó như kinh Mười Điều Răn, kinh Cám Ơn, kinh Tin Kính của các Tông đồ…

Trong dòng lịch sử dân tộc, người Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền văn học Trung Hoa. Đạo Trời của người Việt có một số nét tương đồng với đạo Khổng hay Nho giáo của người Tàu như “Thiên bất dung gian, Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Từ sau Công đồng Kẻ Sở năm 1924, nhiều sách vở Công giáo bắt đầu dùng từ Thiên Chúa, viết tắt bởi từ “Thiên địa chân Chúa”, có nghĩa là vị Chúa đích thực của trời đất, thay cho từ Đức Chúa Trời[3].

Thật ra khi cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Trời dành cho con người và vạn vật, người Việt dễ dàng đón nhận niềm tin của người Công giáo dành cho Thiên Chúa. Điều này đã được nhiều học giả ghi nhận: “Xưa kia chỉ biết kêu trời. Mà nay đã biết gọi Trời là Cha. Trần gian chẳng phải là nhà. Đi về vĩnh cửu gặp Cha trên Trời[4].

1.2. Tình yêu ở đây là gì?

Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8.16), nghĩa là bản thể của Thiên Chúa là tình yêu được đưa vào trong bản tính của con người, nên tình yêu trong con người không còn chỉ là những cảm xúc dù mãnh liệt và có trách nhiệm[5] . Tình yêu nơi Kitô hữu còn là “một nhân đức, nghĩa là một năng lực được thủ đắc bằng huấn luyện[6] , vì thế chúng ta mới nói đến đức tin-đức cậy-đức mến, như thánh Phaolô đã giải thích cho chúng ta: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13,7-8.13).

Sau hết, tình yêu còn là ân huệ cao quý hơn cả và tồn tại mãi mãi. Ân huệ này chỉ đứng sau ân huệ Con Một Thiên Chúa mà Cha Trên Trời ban cho ta. Tình yêu đó là chính Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu ban cho ta khi thổi Thần Khí của Người trên chúng ta. Đó cũng là “tình yêu của Cha Trên Trời đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần Ngài ban cho ta” (x. Rm 5,5) để hướng dẫn chúng ta như những người con tự do của Thiên Chúa, chứ không phải là những nô lệ sợ hãi, mà dân Do Thái xưa kia đã cảm nhận, và để chúng ta có thể nói lên hai tiếng “Abba, Cha ơi!” đối với Thiên Chúa như Thánh Phao lô nhắc nhở (x. Rm 8,14-17).

1.3. Con đường tình yêu

Con đường tình yêu đó cũng là chính Đức Giêsu thực hiện cho mỗi người chúng ta khi mời gọi chúng ta bước theo Người “anh em hãy theo Thầy”, vì Người chính là con đường dẫn đến sự thật giải thoát và sự sống vĩnh hằng (x. Ga 14,6). Người thúc giục ta: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20).

Vì thế, tình yêu của Ba Ngôi vừa là thực tại để chúng ta tôn thờ từng giây phút trong đời sống, đồng thời là một nhân đức để chúng ta luyện tập theo gương tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.

2. Những đặc tính của tình yêu Ba Ngôi

Chúng ta sẽ thấy ba đặc tính kỳ diệu trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi mà không một tôn giáo nào khác có thể dạy chúng ta như Kitô giáo. Đó là tình yêu sáng tạo của Chúa Cha, tình yêu cứu độ của Chúa Con và tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần.

2.1. Tình yêu sáng tạo của Chúa Cha

Tình yêu chân thật không bao giờ ích kỷ, đóng kín nơi mình, tự thoả mãn với mình, nhưng luôn luôn hướng về đối tượng mình yêu để chia sẻ tất cả những gì mình có. Đó là tình yêu của Chúa Cha. Từ tình yêu đó, Chúa Con đã sinh ra. Cũng nhờ tình yêu đó mà muôn loài muôn vật được tạo thành. Chúng ta thấy muôn loài đều phản ánh tình yêu trong sáng và tốt lành của Cha Trên Trời qua màu sắc của từng bông hoa, cánh bướm, đặc biệt là vẻ đẹp nơi mỗi con người. Chúng biểu lộ đặc tính chân thiện mỹ, hạnh phúc, bình an, niềm vui của tình yêu sáng tạo này.

Vì thế, chúng ta đang được mời gọi nhìn lại tình yêu của chính mình để xét xem tình yêu đó có thúc đẩy ta chia sẻ những gì mình có cho người khác không, nhất là cho những người nghèo khổ, dốt nát, yếu hèn, bệnh tật? Tình yêu của chúng ta có mang lại niềm vui, hạnh phúc và bình an cho họ không, hay lại khai thác, bóc lột, làm cho họ khốn khổ hơn khi chưa yêu ta? Tình yêu của ta có mang đặc tính chân thiện mỹ không hay nó giả dối, ác độc, xấu xa?

2.2. Tình yêu cứu độ của Chúa Con

Đặc tính cứu độ đã được diễn tả bằng những hành động cụ thể như Đức Giêsu đã làm trong cuộc đời trần thế của Người. Những hành động đó nhắc nhở rằng ta không được yêu chỉ bằng lời lẽ ngoài môi miệng, nhưng bằng những hành động tích cực thông thường trong đời sống[7] . Đức thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã gửi chúng ta lời nhắn nhủ rằng: “Được khích lệ từ lòng bác ái của Đức Kitô, người Kitô hữu chúng ta cảm thấy sự thôi thúc phải yêu thương anh em đồng loại. Người đó xem nhu cầu, nỗi đau và niềm vui của tha nhân như của chính mình. Các hoạt động trong mọi lĩnh vực của người tín hữu ấy luôn mang tính nối kết vững chắc với tha nhân. Mỗi hành động của họ đều năng động, rộng lượng và ân cần. Vì “đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật[8] .

Tình yêu cứu độ của Ngôi Con luôn mời gọi chúng ta dám hy sinh cho đến cùng như Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Chúng ta cảm nghiệm được sự hy sinh ấy của vạn vật trong từng bữa ăn mỗi ngày, cảm nghiệm được sự hy sinh ấy nơi cha mẹ hy sinh cho con cái, như người tình dám chết cho người mình yêu, như người chiến sĩ hy sinh mạng sống cho đất nước. Nếu tình yêu của ta không mang đặc tính cụ thể và hy sinh thì nó cũng không có tính cách cứu độ muôn loài của Chúa Con.

2.3. Tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần

Thánh hoá có nghĩa là hoá thành thánh như Thiên Chúa là đấng thánh, thần hoá có nghĩa là biến thành thần linh như Thiên Chúa. Vì thế, tình yêu thần thánh hoá của Chúa Thánh Thần luôn mời gọi chúng ta tôn trọng, nâng cao đối tượng mình yêu để giúp họ trở thành thần thánh, thành con cái Thiên Chúa như chúng ta, chứ không phải làm nhục, hạ thấp họ thành vật sở hữu của mình. Rất nhiều lần, do những tham vọng và dục vọng thúc đẩy, chúng ta đã hạ thấp, làm nhục đối tượng mình yêu, thậm chí biến người yêu thành phương tiện giải trí cho tham vọng và dục vọng hoặc bắt người yêu phải hành động như những con rối. Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta phải thay đổi thái độ ấy.

Lời kết

Chúng ta được mời gọi nhìn lại tình yêu của mình xem có mang những đặc tính sáng tạo, cứu độ và thần thánh hoá của Ba Ngôi không. Nếu chúng ta thể hiện những đặc tính ấy trong cuộc sống hằng ngày thì những anh em lương dân chắc chắn sẽ nhận ra rằng chỉ có Ba Ngôi Thiên Chúa của người Công giáo mới có thể thay đổi đời sống con người và xã hội của họ. Lúc đó họ mới dễ dàng tin theo Chúa Giêsu.

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Tại sao người Việt trước đây dễ đón nhận Đạo Trời?

2. Hãy mô tả những đặc tính chính của tình yêu theo Kitô giáo.

 

Bài 2

 Đức Giêsu là con đường sự thật và sự sống

 

Lời mở

Cuộc đời con người giống như một con đường. Có con đường bằng phẳng, đầy bóng cây râm mát và ta đi dễ dàng trong ít phút, nhưng cũng có con đường khúc khuỷu, mấp mô, đầy thử thách, ta phải đi trong suốt cuộc đời. Ngoài những con đường hữu hình đo theo từng cột mốc, còn có những con đường vô hình được gọi là “đạo” như “đạo làm người, đạo làm con”. Đó là những đường lối hay nguyên tắc mà con người có bổn phận giữ gìn và tuân theo trong đời sống xã hội[9]. Những con đường tâm linh, được nhiều người đồng hoá với tổ chức tôn giáo như Đạo Phật, Đạo Lão, Đạo Khổng, Đạo Hồi, Đạo Chúa…, lại còn có thể đưa con người vượt qua cả đời trần thế để đi vào cõi vĩnh hằng.

Vì thế, trong phạm vi bài này, chúng ta tìm hiểu về con đường của muôn loài, của Thiên Chúa và của Giáo hội Chúa Kitô để bước theo trong đời sống.

1. Con đường của muôn loài tìm về cội nguồn

Nhìn vào vũ trụ bao la, dù không phải là nhà khoa học, chúng ta cũng có thể thấy vạn vật chuyển động như đang đi chung một con đường. Sau vụ nổ lớn (Big Bang) đầu tiên cách đây 13,8 tỉ năm, các thành phần của vũ trụ là các thiên hà, các ngôi sao đang lao nhanh trong không gian và mỗi giây phút lại biến đổi và tiến hoá không ngừng[10] như đang tìm về một đích điểm. Nhà khoa học C.R. Darwin (1809-1882) còn mô tả cho ta quá trình tiến hoá này: từ vật chất vô cơ đến hữu cơ, từ đơn bào đến đa bào, từ sinh vật hạ đẳng đến thượng đẳng có tinh thần là chúng ta như “con người biết suy tư”, gọi là “homo sapiens”, xuất hiện cách đây khoảng 40.000 năm[11].

Hơn nữa, con người hiểu biết rằng vạn vật vô cùng kỳ diệu, được vận hành theo những định luật chính xác, giống như chiếc đồng hồ hết sức tinh xảo, nên không thể ngẫu nhiên mà có, mà cần phải do người thợ khéo léo, thông minh làm ra. Riêng con người có khoảng 75 ngàn tỉ tế bào trong cơ thể được chia thành 200 loại khác nhau, được tổ chức thành nhiều nhóm để tạo nên các mô, rồi thành các cơ quan như bộ não, tim phổi gan ruột, nhờ đó con người có thể suy nghĩ, rung cảm, yêu thương, chuyển động, tiêu hoá đồ ăn, sinh sản,[12]…quả là một cấu trúc nhiệm mầu.

Nhờ tinh thần biết suy tư, con người luôn đặt câu hỏi với mình: “Con người là gì hay là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu?”. Con người luôn muốn tìm ra cội nguồn của mình cũng là nền tảng tối thượng của mọi loài hiện hữu trong vũ trụ[13]. Trong đời sống ngắn ngủi, biến động, vô thường ở trần thế, con người ý thức và cảm nghiệm về đau khổ, bệnh tật, già yếu, chết chóc trong khi vẫn nuôi trong lòng khát vọng được sống tốt đẹp mãi mãi và được hưởng trọn vẹn tự do, công bằng, hạnh phúc, tình yêu, hoà bình…[14] .

Con người không muốn chỉ truyền lại sự sống và ước mơ của mình cho con cháu sau này, nhưng muốn chính mình đạt được khát vọng đó. Vì thế con người luôn cố gắng đi tìm con đường dẫn tới nguồn của mọi hiện hữu để  m“được cứu độ, giải thoát, được hoá thành thần thánh, được vào Niết Bàn, vào Thiên Đàng…”.

Đấy là con đường tự nhiên của vạn vật trong vũ trụ cũng là con đường tâm linh của con người[15].

2. Con đường của Thiên Chúa

Người Cha Tạo Hoá, mà mỗi tôn giáo gọi bằng tên khác nhau như Đức Chúa Trời, Thiên Chúa, Đức Thượng Đế, Đấng Cao Đài, Đấng Tối Cao…, đã vạch ra con đường yêu thương để muôn loài tìm về được với Ngài. Các nhà khoa học ngày càng kinh ngạc khi khám phá ra những định luật kỳ diệu trong từng cục đá tầm thường, từng bông hoa nay còn mai mất… như dấu hiệu của con đường siêu việt ấy ẩn giấu trong vạn vật. Muôn loài thọ tạo, vì được Thiên Chúa nguồn Chân Thiện Mỹ tạo thành, nên đều được chia sẻ những phẩm tính cao đẹp vĩnh hằng của Thiên Chúa (x. Kn 1,13-15; Mt 6,25-32).

Con đường này càng rõ rệt và cụ thể hơn nơi con người vì con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh Ngài với tinh thần mở rộng đến vô biên và với tình yêu tự do để đáp lại tình yêu của Đấng Tạo Hoá (x. St 1-3)[16].

Nhưng con người đã chối từ tình yêu này, muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, cắt đứt với nguồn hiện hữu, nên con người đương nhiên mất hết những ân sủng cao quý Chúa ban: trẻ đẹp, khôn ngoan và sống mãi. Hành động chối từ của nguyên tổ Ađam-Eva nói lên thực trạng bất toàn của con người (x. St 1-3)[17]. Vạn vật, vì gắn bó một cách mật thiết với con người, nên cũng bị ép buộc lệ thuộc sự hư nát (x. Rm 8,28) do tội lỗi con người gây nên.

Vì thế, khi chiều theo những tham vọng và dục vọng, con người không còn nhận ra con đường của Chúa ghi khắc nơi vạn vật cũng như nơi chính mình. Con người quay sang tôn thờ những sức mạnh thiên nhiên, bái lạy các tượng thần tưởng tượng. Ngày nay con người còn tôn thờ cả tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp, tài năng, khoa học vì tưởng lầm rằng chúng có thể ban cho mình hạnh phúc, sự sống, tình yêu…

Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn đặt con đường của Ngài trong lương tâm ngay chính của con người để dẫn họ về với Ngài. Ngài đã chỉ bảo cho họ bằng nhiều cách khác nhau (x. Dt 1,14) và các tôn giáo được coi là những con đường tâm linh để giúp con người tìm về với Ngài. Những con đường ấy, dù còn những điểm bất toàn, sai lạc, có khi mê tín, nhưng thật sự cũng là những con đường được Chúa Thánh Thần soi sáng cho con người[18].

Thiên Chúa còn chỉ dạy con đường của Ngài qua lịch sử dân tộc Do Thái khi kêu gọi Abraham lên đường (x. St 12,1-5). Dân tộc Do Thái đã học kinh nghiệm đi với Thiên Chúa của mình (x. Mk 6,8), nhất là trong cuộc xuất hành qua hoang địa (x. Tv 68,8), cột mây, cột lửa dẫn đường (x. Xh 13,21), với giao ước Mười Điều Răn như bộ luật đi đường, để vào được Đất Hứa. Cuối cùng, họ hiểu ra con đường của Giavê, Đấng hiện hữu, là con đường tình yêu và chân lý (x. Tv 25,10; Tv 136) chứ không phải là luật lệ hình thức và việc thờ phượng bên ngoài[19].

Sau những lầm lạc của dân Do Thái và mọi dân tộc, chính Thiên Chúa sẽ xây dựng một con đường mới (x. Is 49,11) cho muôn loài. Đó là con đường Giêsu.

3. Đức Giêsu là Con đường sự thật và sự sống

Việc Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành con người chính là công trình Thiên Chúa xây dựng con đường của Ngài. Một Thiên Chúa tuyệt đối, vô hạn, siêu việt ở bên ngoài không gian, thời gian, đã trở thành một con người lịch sử hữu hình trong một không gian và thời gian nhất định. Con người đó là Đức Giêsu Nazareth. Thiên Chúa thực hiện công trình này do tình yêu thúc đẩy[20]  vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,6). “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài, thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).

Con đường Giêsu có 2 chiều: một chiều đi xuống từ phía Thiên Chúa đến với thụ tạo và một chiều đi lên để nâng thụ tạo thành thần linh, chia sẻ cho họ sự sống đời đời, giúp họ thoả mãn khát vọng sâu xa là trở thành Thiên Chúa như Ngài.Không ai lên trời được ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13), chỉ cho họ con đường lên trời. Đây là điểm khác biệt của con đường Giêsu so với các con đường tâm linh một chiều khác trong lịch sử[21] .

Đức Giêsu thật sự là con đường dẫn đến sự thật toàn vẹn và sự sống vĩnh hằng khi Người công bố và minh chứng cho con người và vạn vật biết Người “con đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Người” (Ga 14,6)[22]. Người đã minh chứng con đường này bằng những lời giảng dạy đầy quyền năng, bằng những phép lạ, bằng cái chết trên thập giá và cuộc sống lại của Người. Như thế, con đường Giêsu không còn phải là những tín điều, những giáo thuyết, những nghi lễ hay luật lệ (x. Cv 9,2; 18,25; 24,22) nhưng là một con người sống động mà chúng ta cần tìm hiểu, đi theo, yêu mến và kết hợp thành một với Người.

Hơn nữa, Đức Giêsu còn đồng hoá mình với con người, nhất là với những ai đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, bị coi thường, bị tù tội (x. Mt 25,31-46) để mời gọi chúng ta yêu thương con người. Trong dòng lịch sử, nhiều tôn giáo đã có lúc quá chú trọng đến hình thức, nghi lễ dành cho thần linh, cho Thiên Chúa, mà coi nhẹ những hoạt động dành cho con người[23]. Đây cũng là một trong các nguyên nhân phát sinh ra những thái độ của con người chối bỏ thần thánh, tạo nên các chủ nghĩa vô thần. Những chủ nghĩa này đã nhân danh con người hay xã hội loài người để đòi lại những gì mà các tôn giáo đã dành cho thần linh, cho Thiên Chúa[24].

Vì thế, từ Công đồng Vaticanô II, Giáo hội Công giáo đã bắt đầu xây dựng một nền nhân bản, dựa vào Chúa Kitô và lấy con người làm gốc, để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và mời gọi mọi người cùng tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại[25]. Giáo hội Công giáo đã xác định rằng con người là con đường của Giáo Hội[26] và cũng là con đường của Thiên Chúa, vì “Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành Đức Giêsu Kitô (x. Ga 1,14). Người sống với con người để làm cho tất cả những giá trị của con người thành cao cả vô biên vì “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ nơi Đức Giêsu Kitô”[27].

Lời kết

Khi hiểu được Đạo là Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ thấy việc đi đạo, theo đạo, giữ đạo, sống đạo chính là đi theo và kết hợp thành một với Chúa Giêsu trong tình yêu để chính mình lại trở thành con đường dẫn muôn loài về với Người.

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn đang theo đạo Công giáo, bạn hiểu đạo là gì?

2. Bạn đang quan tâm thế nào đến con người?

Bài 3

Tại sao người ta ít hiểu biết về Chúa Giêsu Kitô?

 

Lời mở

Tài liệu Làm việc của THĐGM nhiều lần nhắc nhở rằng: Đức Giêsu Kitô chính là Tin Mừng của Thiên Chúa mà chúng ta phải rao giảng về Người, phải tìm hiểu Người cho thấu đáo, phải gặp gỡ được Người để hình thành nên đức tin nơi ta trước khi truyền bá đức tin này cho người khác (x. số 17, 18, 21, 26, 33, 167, 169).

1. Tại sao Giáo Hội lại chọn chủ đề “Tân Phúc Âm hoá” và mở Năm Đức Tin?

Chúng ta đã nhiều lần nói đến việc loan báo Tin Mừng trong Giáo Hội hiện nay hình như đang chậm lại và thiếu hiệu quả, cũng như nhắc đến các con số chứng minh việc tăng trưởng yếu kém của người Công giáo trên toàn thế giới và ngay trong Giáo hội Việt Nam.

Chúng tôi cũng muốn nhắc đến 1 sự kiện: ngày 31/8/2012, Đức Hồng y Carlo Maria Martini, nguyên Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Milan, qua đời. Đây là giáo phận lớn nhất châu Âu với 4.900.000 tín hữu. Trước khi ngài mất, nhật báo Corriere della Serra của Ý đã phỏng vấn ngài, và bài phỏng vấn cuối cùng này được nhiều nước trên thế giới đăng lại (x. La Croix của Pháp; báo Công giáo và Dân tộc của Việt Nam, số 1874, tr.23…).

Với đầu óc sáng suốt minh mẫn của 1 người đã từng làm Viện trưởng Giáo hoàng Học viện Thánh Kinh, Viện trưởng Đại học Giáo hoàng Gregoriana, Chủ tịch Liên Hội đồng Giám mục châu Âu, ngài nhận định rằng: “Giáo hội Công giáo đang mệt mỏi và chậm trễ. Nền văn hoá Công giáo đang già đi, các ngôi nhà thờ thì rộng lớn, các dòng tu thì trống vắng, và bộ máy quan liêu của Giáo Hội lại đang phát triển. Các nghi lễ và áo mặc mang tính khoa trương… Giáo Hội đang bỏ quên những người nghèo khổ và giới trẻ năng động… Đức Hồng y kêu gọi tất cả Giáo Hội cùng hoán cải để trở về tinh thần can đảm hăng say ban đầu, lắng nghe Lời Chúa và dùng bí tích như một phương tiện chữa lành – thay vì trừng phạt – những con người gặp hoàn cảnh yếu đuối trong cuộc sống như phải ly dị, ngăn trở trong hôn nhân…”.

Những lời phát biểu trong cuộc phỏng vấn cuối cùng này có thể làm phật lòng một số vị lãnh đạo trong Giáo Hội, nhưng đó là những lời tâm huyết của vị chủ chăn sáng suốt và nhiều kinh nghiệm. Đó cũng là lời trăn trối cuối cùng của người hiểu được giá trị thật sự cuộc đời, gửi lại cho những người anh em rất thân yêu trước khi về cõi vĩnh hằng nên rất đáng chúng ta trân trọng, suy tư.

2. Tin Mừng sống động

Vì thế, chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội toàn cầu và Giáo hội Việt Nam, giống như các tông đồ và các môn đệ đã cùng cầu nguyện với Đức Maria và các anh em Chúa Giêsu tại nhà Tiệc Ly để xin Chúa Thánh Thần hiện xuống (x. Cv 1,12-14). Nhờ sự soi sáng của Ngài, mỗi tín hữu, từ vị lãnh đạo đến từng giáo dân, đều được ơn hoán cải để trở về với tinh thần của Chúa Giêsu, để khám phá ra Chúa Giêsu mới chính là Tin Mừng sống động. Rất nhiều người, khi nói đến việc loan báo Tin Mừng, là nghĩ ngay đến những lời, những chữ viết trong cuốn Tân Ước hay Thánh Kinh rồi lặp đi lặp lại một cách máy móc.

ĐTC Bênêđictô trong số 11 của Bản Đề cương THĐGM 2012 nhắc nhở ta rằng: “Khi nói đến TM, chúng ta không được chỉ nghĩ về nó như là một cuốn sách hay một tập hợp các lời giáo huấn. TM là một cái gì nhiều hơn nữa: nó là một lời sống động và linh nghiệm, nói điều gì thì điều đó trở thành hiện thực. TM không chỉ là một hệ thống các điều khoản đức tin và giới răn đạo đức, càng không phải là một chương trình chính trị (như của một số đảng phái ở châu Âu) mà là một con người: Đó là Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa đã làm người. Tin Mừng là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, TM không chỉ lấy Đức Giêsu Kitô làm nội dung, nhưng hơn thế nữa, nhờ Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu Kitô cũng là người cổ vũ và là tâm điểm của việc rao giảng và truyền bá TM. Do đó, mục tiêu của việc truyền bá đức tin là thể hiện một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giêsu Kitô, trong Thánh Thần, nhờ đó dẫn đưa chúng ta tới một trải nghiệm về Cha của Người và Cha của chúng ta”.

Đức Giêsu là con người sống động nên chúng ta cần phải tìm hiểu, học hỏi, gặp gỡ thì mới có thể yêu mến và kết hợp với Người vì “vô tri bất mộ”. Người đang sống giữa chúng ta, sống trong chúng ta và chúng ta cần cảm nghiệm được sự hiện diện của Người thì mới phát huy được quyền năng, tình yêu, ân sủng Người ban để chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, loan báo TM bằng con người nhỏ bé, yếu đuối, tội lỗi của mình. Ta cần mở rộng tâm hồn như Mẹ Maria để đón nhận Thánh Thần (Lc 1,26-38), và cảm nghiệm được Ngôi Lời là TM sống động trong lòng mình, ta mới thấy đời mình đầy bình an và hoan lạc như Mẹ.

Hơn nữa, giống như Người Mẹ Thánh, ta lại lên đường để chia sẻ TM sống động ấy cho người chị họ Elisabeth, cho mọi người ta gặp gỡ để cùng hiện diện sống động trong Nhà Tiệc Ly với Giáo Hội vào bất cứ hoàn cảnh hay thời đại nào. Như ĐHY Martini và nhiều người nhận thấy rằng: “Giáo Hội đang bỏ quên con người nên không chuyển được TM cho con người, nhất là những người nghèo khổ, thiếu thốn, tàn tật”.

Thế giới hiện nay có hơn 1 tỷ người sống trong tình trạng nghèo đói. Việt Nam đang có khoảng 16 triệu người trên tổng số gần 90 triệu dân không kiếm được 20.000 đồng một ngày. Tuy nhiên, nhiều nơi trong Giáo Hội vẫn đang tiếp tục xây dựng những thánh đường nguy nga, tổ chức những lễ nghi hoành tráng, những cuộc hành hương tốn kém không cần thiết. Việt Nam đang có khoảng 16 triệu người khuyết tật về thể lý và tinh thần, hơn 50 triệu người trẻ dưới 35 tuổi, nhưng thử hỏi người tín hữu chúng ta đã dành những hoạt động nào, những vật chất nào để lo cho những con người ấy?

Giáo Hội như muốn nhắc nhở chúng ta rằng: “con người là con đường của Giáo Hội” và cũng là con đường của Thiên Chúa vì Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người để chúng ta quan tâm đến con người hơn những thứ vật chất phụ thuộc kia và phục vụ con người với tình yêu của Thánh Thần Thiên Chúa như Mẹ. Chính Đức Giêsu, TM sống động, mới là đền thánh ta cần xây dựng nơi những con người khốn khổ hiện nay. Còn nếu Giáo Hội bỏ quên con người, không muốn phục vụ họ, thì Giáo Hội không còn lý do tồn tại, và con người từ khước Giáo Hội, quay lưng với TM là lẽ đương nhiên.

Nhưng muốn tin Đức Giêsu, ít ra người ta phải biết Người là ai. Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: Tại sao người tín hữu ít hiểu biết Đức Giêsu? Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng ta có thể nêu những điểm chính thuộc về lịch sử và về thời điểm hiện nay.

3. Tại sao người tín hữu ít hiểu biết Đức Giêsu?

3.1. Những nguyên nhân thuộc về lịch sử

3.1.1. Những cố gắng ban đầu

Ngay từ khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng, nhiều người đã thắc mắc và tìm hiểu xem Người thật sự là ai mà nói được những lời quyền năng, làm được phép lạ lớn lao, cho kẻ chết sống lại như thế? Chính Đức Giêsu cũng hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?” và “Anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,13-15).

Sau khi Chúa Giêsu chết và sống lại, cộng đồng tín hữu càng muốn tìm hiểu Người nhiều hơn. Họ thu thập các lời rao giảng, câu chuyện chữa lành, hành động kỳ diệu của Người để viết thành sách Tin Mừng và bộ sách Tân Ước như tài liệu căn bản cho ai muốn biết Chúa Giêsu. Nhờ sự thúc đẩy và ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội bắt đầu rao giảng và viết về Chúa Giêsu cách hệ thống hơn để giải đáp những thắc mắc cho tín hữu và chứng minh đức tin chân thật của Kitô giáo.

3.1.2. Thành công và thất bại

Trong 5 thế kỷ đầu, nhiều người hăng hái nghiên cứu, tranh luận, thậm chí xung đột với nhau để khám phá ra sự thật về Đức Giêsu. Những cố gắng này rất đáng trân trọng, dù rằng khi tìm hiểu như thế, không ít người lầm lạc vì quá nhấn mạnh đến tính cách Thiên Chúa và xem thường tính cách nhân loại của Người. Hơn nữa, do khả năng suy luận của con người có hạn trước mầu nhiệm Giêsu, do sự giới hạn của ngôn ngữ và chữ viết không thể diễn tả hết tư tưởng, do sự hiểu lầm về từ ngữ khác nhau giữa các dân tộc nên việc tìm hiểu Đức Giêsu có cả thất bại lẫn thành công. Nhất là khi vua chúa ủng hộ lập trường của người này và chống đối quan điểm của người khác nên việc trình bày về Đức Giêsu có khi bị hiểu lầm, bị kết án là lạc giáo, bị tù tội và lưu đày, thậm chí bị giết chết.

Hàng chục công đồng chung cũng như riêng từng địa phương đã được mở ra để làm sáng tỏ sự thật về Đức Giêsu, nổi tiếng là Công đồng Nicêa (năm 325) xác định Đức Giêsu là người thật và là Thiên Chúa thật (x. GLHTCG, số 464-466) và Công đồng Chalcêđônia (năm 451) xác định thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu phối hợp với nhau cách lạ lùng “không lẫn lộn, không thay đổi, không phân chia, không tách biệt” (x. GLHTCG, số 467-469). Cuối cùng, để tránh xung đột, Giáo Hội yêu cầu các vị lãnh đạo, các nhà thần học đừng đưa ra những điều mới mẻ có thể gây tranh cãi về Chúa Giêsu.

Kể từ đó cho tới giữa thế kỷ XX, không ai dám khám phá thêm sự thật về Chúa Giêsu vì sợ sai lầm, rối đạo, ngoại trừ một vài thánh tiến sĩ nổi tiếng như thánh Augustinô, thánh Tôma Aquinô (1225-1274). Sự im lặng thần học này khiến cho cộng đồng tín hữu giáo sĩ và giáo dân càng ngày càng không biết gì về Đức Giêsu ngoài mấy tín điều trong kinh Tin Kính. Đời sống đạo tập trung vào việc tham dự thánh lễ, chịu các bí tích và làm các việc đạo đức bình dân như chầu Thánh Thể, đi Đàng Thánh Giá, lần hạt,… thay vì xây dựng trên sự hiểu biết về Đức Giêsu.

3.1.3. Những quan điểm thần học khác biệt

Việc thiếu hiểu biết về Chúa Giêsu còn bắt nguồn từ những quan điểm thần học khác biệt của các dòng tu, trường phái trong nội bộ Giáo hội Công giáo. Thí dụ phái Kinh viện cho rằng Đức Giêsu nhận bản tính loài người trước khi Adam phạm tội nên Người phát huy khả năng kỳ diệu của con người, gắn bó với Thiên Chúa. Đức Giêsu có thể biết mọi sự, cả những gì một triệu năm sau con người có thể biết thì Đức Giêsu đã biết trước. Nếu có ai hỏi Đức Giêsu có biết đi xe đạp, biết sử dụng máy vi tính không? Thì chắc chắn sẽ nhận được câu trả lời: Đức Giêsu biết mọi sự!

Tuy nhiên, câu trả lời kinh điển này trái ngược với thực tế đời sống Đức Giêsu: Người vẫn đói khát, mệt mỏi, thậm chí không biết nhiều thứ. Giáo lý Hội Thánh Công giáo xác nhận: “Tri thức này của Đức Giêsu, theo đúng nghĩa, tự nó không thể có tính chất vô hạn. Nó được hình thành trong các điều kiện lịch sử của cuộc sống trong không gian và thời gian. Do đó Thiên Chúa khi làm người, đã có thể chấp nhận ‘ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và ơn nghĩa…’ (Lc 2,52)” (GLHTCG, số 472). Vì thế Người không biết đi xe đạp, không biết vi tính vì thời đại Người chưa có những thứ đó.

3.1.4. Tâm lý tránh né vấn đề

Một lý do quan trọng khác là từ thế kỷ 16, khi các anh em Tin Lành chủ trương lấy đức tin và Thánh Kinh (sola fides, sola Scriptura) làm cơ bản cho đời sống, ra sức học hỏi Thánh Kinh và đưa ra nhiều điểm tranh luận với Công giáo về Đức Giêsu như các anh chị em ruột của Người, sự trinh khiết của Mẹ Maria, việc tôn kính các thần thánh, hiệu quả các bí tích và xem Đức Giêsu chỉ là một cơ hội cho lòng tin của mỗi người đối với Thiên Chúa thì các nhà thần học Công giáo giữ thái độ im lặng, tránh né việc tìm hiểu về Đức Giêsu để khỏi phải trả lời các vấn đề gây tranh cãi.

Mãi đến năm 1949, khi nhà thần học Karl Rahner viết bài: “Công đồng Chalcêđônia (451) có phải là điểm kết thúc hay chỉ là điểm khởi đầu của Kitô học?”, các nhà thần học Công giáo mới nhận ra “sự im lặng đáng sợ” của việc thiếu hiểu biết về Đức Kitô và bừng tỉnh cơn mê dài 15 thế kỷ. Rồi nhờ tinh thần cởi mở của Công đồng Vaticanô II (1962-1965), một số nhà thần học Công giáo bắt đầu trình bày những quan điểm mới rất quan trọng cho Kitô học. Nhiều điểm mới này đã được tổng hợp trong bộ sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo năm 1992 và cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo năm 2004. Tuy nhiên, nhiều vị lãnh đạo Giáo Hội, nhiều linh mục vẫn chưa quan tâm đến những điểm mới này để phổ biến cho cộng đồng tín hữu giáo dân.

3.2. Những nguyên nhân hiện nay

3.2.1. Kitô học là môn học kém phát triển trong khoa Thần học

Những nguyên nhân lịch sử trên đây đã để lại cho Giáo hội Công giáo nhiều hậu quả nặng nề. Tai hại hơn cả là người tín hữu hiện nay hiểu biết rất ít về Đức Giêsu Kitô và môn Kitô học có thể nói là môn học kém phát triển nhất trong khoa Thần học, dù rằng Kitô giáo đáng lý phải xây dựng trên Kitô học. Các học viện thần học Công giáo thường yêu cầu sinh viên học khoảng 400-500 giờ môn Thánh Kinh, nhưng chỉ dành khoảng 100 giờ cho Kitô học. Để tránh căng thẳng giữa các quan điểm thần học khác nhau về Đức Kitô, nhiều đại học Công giáo không giảng dạy môn Kitô học theo hệ thống mà chỉ trình bày theo từng chủ đề về Đức Kitô. Thí dụ như: “Đức Kitô là công dân Nước Trời”, “Tri thức của Đức Kitô”, “Tự do của Đức Kitô”,…

3.2.2. Sự thiếu hiểu biết còn bắt nguồn từ thái độ của tín hữu đối với Thánh Kinh

Do ảnh hưởng chủ trương giải trừ huyền thoại cho Tin Mừng phát xuất từ nhà thần học Tin Lành R. Bn, nhiều nhà thần học Công giáo không còn thiết tha với việc tìm hiểu Đức Giêsu thật sự là ai bởi họ đã chối từ mọi dấu hiệu quyền năng của Đức Kitô qua các phép lạ Người làm cũng như qua cuộc sống lại của Người. Đáng lẽ các nhà thần học Thánh Kinh Công giáo phải giải đáp được những vấn đề Thánh Kinh thì nhiều người lại giữ im lặng khiến cho sự thật về Đức Giêsu Kitô không được sáng tỏ.

3.2.3. Phương pháp dùng trong Kitô học

Sự thiếu hiểu biết còn bắt nguồn từ phương pháp dùng trong Kitô học khi nghiên cứu đời sống Đức Giêsu. Cho đến ngày nay, nhiều học viện Công giáo vẫn chủ trương Kitô học là một môn thần học và dùng phương pháp suy tư dựa trên các dữ liệu Thánh Kinh, Thánh truyền, Huấn quyền và Luận chứng thần học. Tuy nhiên, Đức Giêsu không phải chỉ là Thiên Chúa thật mà còn là con người thật. Vì là con người nên Đức Giêsu cũng là đối tượng của tất cả các khoa học tự nhiên, xã hội nhân văn và có thể dùng phương pháp thực nghiệm của các khoa học này để giải đáp những câu hỏi liên quan đến Đức Giêsu. Thí dụ: người ta có thể dùng tâm lý học để tìm hiểu “cấu trúc tâm lý của Đức Giêsu”, dùng vật lý để hiểu cấu trúc thể lý C,H,O,N của Đức Giêsu… Nhờ phối hợp giữa thần học và khoa học, người tín hữu có thể tìm ra những giải đáp cho các vấn đề trong cuộc sống thay vì sợ hãi và tránh né như trước đây.

Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của Kitô học mới mẻ này, hơn 1.000 nghị phụ đã đồng thanh xin ĐTC Gioan Phaolô II yêu cầu các nhà thần học Công giáo chung sức biên soạn một giáo trình cơ bản Kitô học cho các học viện Công giáo vào năm 1998, nhưng không thấy nhà thần học nào đáp ứng yêu cầu này. Vì thế, ĐTC Bênêđictô XVI, nhờ sự thông thái uyên bác của ngài, đã viết nên những điểm cơ bản cho việc tìm hiểu Đức Giêsu Kitô trong 3 tập Đức Giêsu thành Nazareth mà tập thứ 3 mới xuất bản vào cuối năm 2012.

Lời kết

Suy nghĩ về việc những nguyên nhân ngăn cản sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô, chúng ta được mời gọi dành nhiều thời giờ hơn để học biết về Người và khám phá ra Người thật sự là Tin Mừng sống động ta cần gắn bó, gặp gỡ, cảm nghiệm, yêu thương. Có như thế, cuộc đời chúng ta mới thật sự có ý nghĩa, biến đổi và thăng hoa.

NB. Một vài sách đề nghị tham khảo

Có rất nhiều sách tham khảo có thể đọc thêm nhưng chúng tôi đề nghị anh chị em có thể tìm đọc các sách cơ bản sau đây:

– Sách Đức Giêsu thành Nazareth gồm 3 tập của ĐTC Bênêđictô XVI. Đã có nhiều bản dịch về tập I, tập II, tập III của Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh, NXB Tôn Giáo, 2009-2013;  tập I của Lm. Nguyễn Luật Khoa, OFM. và Nữ tu Phạm Thị Huy, OP.; tập III (Thời thơ ấu) của Lm. Fx. Phạm Đình Phước, SDB. Chúng tôi cũng giới thiệu bản dịch mới giúp cho anh chị em dễ hiểu hơn và được đăng từng bài trên trang web: hanhkhatkito.org, ở mục Kitô học. Kèm theo từng chương của sách này, chúng tôi cũng dịch tài liệu: Hướng dẫn học hành (A Study Guide) do một số nhà thần học Hoa Kỳ biên soạn. Anh chị em có thể truy cập trong đó để xem hoặc lấy bài học.

– Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo do Bộ Giáo lý Đức tin biên soạn năm 1992, bản dịch chính thức của Hội đồng Giám mục Việt Nam được Toà Thánh Rôma công nhận năm 25/6/2009, NXB Tôn Giáo, 2010. Đặc biệt chương 2, đoạn 2 của Phần thứ Nhất: “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa”.

– Sách Kitô học của Lm. Gerard O’Collins, SJ., do Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông, CssR. dịch, NXB Tôn Giáo 2012.


Bài 4

Xác tín trọn vẹn vào Đức Giêsu Kitô

Lời mở

Thượng Hội đồng nhắc chúng ta rằng: “Theo sách Tông đồ Công vụ, người ta không thể dạy điều gì mình không tin hay không sống. Người ta không thể truyền đạt Phúc Âm khi không sống rập theo khuôn Phúc Âm hay không tìm thấy ý nghĩa, sự thật và tương lai của đời mình dựa trên Phúc Âm”. Giống như các tông đồ, ngày nay chúng ta cũng được thông phần vào sự sống hiệp thông của Chúa Cha, trong Chúa Giêsu, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng biến đổi và ban sức mạnh để chúng ta không chỉ truyền đạt đức tin mình sống mà còn khơi dậy sự đáp ứng nơi những người mà Thánh Thần đã chuẩn bị bằng sự hiện diện và hành động của Ngài (x. Cv 16,14; TLLV, số 91).

Như thế, điều kiện cần thiết nhất cho người thừa sai là niềm xác tín trọn vẹn vào Đức Giêsu Kitô và thở được Thần Khí của Người để biểu lộ và chia sẻ sự sống kỳ diệu của Thiên Chúa cho muôn người. Nhưng để có thể có được niềm xác tín đó, chúng ta phải loại bỏ những nghi ngờ và giải đáp được những thắc mắc về lời dạy của Chúa Giêsu trong các sách Phúc Âm, về những phép lạ cũng như hành động cứu độ, nhất là về cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô mà nhiều phong trào và ý thức hệ đang đặt ra cho chúng ta. Trong tinh thần đó chúng ta sẽ tóm lược vài vấn đề và giải đáp chính yếu về Chúa Giêsu để tin tưởng trọn vẹn vào Người.

1. Những vấn đề nan giải về sự khác biệt trong các đoạn văn Phúc Âm

Ngày nay, nhiều phong trào, như “phong trào Giải trừ Huyền thoại cho Phúc Âm” khởi xướng bởi R. Bultmann, nhiều chủ trương của các nhà Thánh Kinh học đang chối bỏ hoặc giải thích những lời dạy, phép lạ, mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu theo hướng hoàn toàn trần tục. Nếu chúng ta không sáng suốt giải đáp, chính chúng ta cũng có thể đánh mất lòng tin yêu vào Đức Giêsu Kitô. Trong nhiều thế kỷ, anh em Cải Cách theo các hệ phái Tin Lành đã chủ trương “sola fides, sola Scriptura” (chỉ cần đức tin, chỉ cần Thánh Kinh). Nhưng sau khi các nhà Thánh Kinh của họ trình bày những vấn đề nan giải trong Thánh Kinh, đặc biệt trong Tân Ước, nhiều người không còn sùng mộ Thánh Kinh nữa, chỉ giữ lại đức tin và xem Đức Giêsu như biểu tượng thúc đẩy lòng tin của mình chứ không tin vào Người. Sự suy thoái này bắt nguồn từ những giải đáp về sự khác biệt khi so sánh các bản Phúc Âm với nhau.

Từ thế kỷ I đến thế kỷ XIX, người tín hữu chỉ có thể đọc những bản văn Thánh Kinh rời rạc nên không thể so sánh chúng với nhau. Nhờ những tiến bộ của ngành in ấn, xuất bản, dịch thuật trong một vài thế kỷ gần đây, tín hữu có các bản văn Thánh Kinh trọn bộ bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Từ đó, người ta đọc cẩn thận và so sánh các bản văn khác nhau, nhất là các Phúc Âm Nhất Lãm. Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh nhận thấy có nhiều sự khác biệt giữa các Thánh Sử khi tường thuật các lời nói, hành động, sự việc, nhất là biến cố khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Chúng ta có thể đưa ra vài thí dụ tiêu biểu sau đây:

1.1. Lời nói

Thí dụ Chúa Giêsu nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” trong bản Phúc Âm của thánh Matthêu và Marcô (x. Mt 16,24; Mc 8,34) trong khi bản Phúc Âm của thánh Luca lại thêm chữ “hằng ngày” sau từ “thập giá mình” (Lc 9,23). Lời kinh “Lạy Cha” theo thánh Matthêu (x. Mt 6,9-13) khác với bản văn của thánh Luca (x. Lc 11,2-4). Tám mối phúc thật của Matthêu (x. Mt 5,3-12) cũng khác với Luca (x. Lc 6,20-22). Câu tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” trong Luca (x. Lc 9,18-24) khác với lời tuyên xưng ở miền Cêsarê Philipphê: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” trong Matthêu (x. Mt 16,13-20) và Marcô (x. Mc 8, 27-38). Vậy đâu là lời thật của Chúa Giêsu? Các Thánh sử có thêm bớt gì vào lời dạy của Chúa?

1.2. Hành động

Nếu so sánh các phép lạ, dường như có sự khác biệt giữa các Thánh Sử: thí dụ trong bản văn của Matthêu ông Giairô xin Chúa cho con gái mình vừa mới chết được sống lại (x. Mt 9,19), khác với Mc 5,22-23 và Lc 8,42: Cô bé chưa chết lúc ông Giairô gặp Chúa. Hoặc trong Mt 21,19: cây vả bị Chúa chúc dữ lập tức héo khô, còn trong Mc 11,14-20: cây đó héo vào ngày hôm sau. Hay trong Mt 9,20-22: Chúa Giêsu ý thức việc chữa người phụ nữ băng huyết khác với sự kiện ở Mc 5,27-34.

Khi nghiên cứu các phép lạ của Chúa Giêsu trong các bản văn của Mt (14,13-21; 16,32-39), Mc (6,30-44; 8,1-10), Lc (9,10-17), Ga (6,5-15), nhất là phép lạ hoá bánh ra nhiều, người ta ghi nhận có sự gia tăng về con số: từ 4.000 người ăn (Mc), 4.000 đàn ông không kể đàn bà và trẻ con (Mt), lên 5.000 người rồi đến 5.000 (Mc, Lc, Ga) đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con (Mt). Chúa chữa 1 người mù tên Bartimê ở Jericho (x. Mc 10,46-52; Lc 18,35-43) hay 2 người mù ở Jericho (x. Mt 20,29-34)?

1.3. Cuộc tử nạn

Chẳng hạn như việc xức dầu, Thánh Gioan ghi nhận việc xức dầu thơm xác Chúa Giêsu thực hiện vào chiều thứ Sáu (x. Ga 19,39-40), trong khi  Phúc Âm Nhất Lãm lại nói đến chuyện các phụ nữ định xức dầu vào sáng Chúa Nhật (x. Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,1), nhưng khi các bà mang dầu đến thì hòn đá che cửa mộ đã lăn sang một bên. Nếu đã chôn táng xác chết rồi thì làm sao lại xức dầu nhiều ngày sau như thế?

1.4. Cuộc Phục sinh

Vào buổi sáng ngày Chúa Giêsu sống lại, các phụ nữ tìm đến mộ Chúa. Các Thánh Sử kể tên của các phụ nữ đến mộ Chúa Giêsu mỗi người một khác. Matthêu (x. 28,1) nói 2 bà Maria trong đó có bà Maria Magdala, Marcô nói tới 2 bà Maria và Salômê (x. Mc 16,1), Luca nói đến 2 bà Maria, bà Gioana và nhiều phụ nữ khác (x. Lc 24,10) trong khi Gioan kể chỉ có một mình Maria Magdala (x. Ga 20,11-18).

Các bà nhìn thấy 1 Thiên Thần (x. Mt 28,2-7; Mc 16,5-7), hoặc 2 Thiên Thần (x. Lc 24,4-5; Ga 20,11-13), một vị ngồi đằng đầu, một vị ngồi đằng chân.

Địa điểm Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cũng là một vấn đề gây tranh cãi vì nếu các môn đệ nghe theo lời các phụ nữ đi về Galilê (x. Mt 28,10; Mc 16,7) vào ngay buổi sáng ngày Chúa Nhật thì họ không thể nào gặp Chúa vào buổi chiều hôm đó trong nhà Tiệc Ly ở Giêrusalem (x. Ga 20,19-23) vì Galilê cách Giêrusalem khoảng 160 cây số, nếu đi bộ cũng phải mất nhiều ngày.

Tất cả những khác biệt đó đã làm cho những người đọc và nghiên cứu Thánh Kinh đặt những câu hỏi: tại sao lại có sự khác biệt đó? Các khác biệt đó do tác giả Thánh kinh đem vào, do cộng đồng đón nhận Phúc Âm tác động hay do Chúa Thánh Thần linh hứng? Người ta bắt đầu giải thích bằng nhiều quan niệm và lý lẽ khác nhau. 

2. Giải thích một số khác biệt trong Phúc Âm theo khoa văn hình sử

Kể từ khi có các sách Phúc Âm cho đến thế kỷ XX, người tín hữu Kitô, nhất là Công giáo, luôn tin tưởng rằng Phúc Âm là những sách được Chúa Thánh Thần linh hứng nên các Thánh Sử viết đúng những gì Chúa mạc khải, không thêm bớt, không sửa đổi. Vì thế sách Phúc Âm có giá trị tuyệt đối, không thể sai lầm và kể đúng sự thật về sự kiện, cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, trong một hai thế kỷ gần đây, khoa Thánh Kinh học đã có những tiến bộ vượt bậc khi áp dụng những nguyên tắc nghiên cứu văn học cho các bản văn Thánh Kinh, vì dù sao, xét về phương diện nhân loại, Phúc Âm cũng là những áng văn chương do con người viết nên. Những nhà nghiên cứu Thánh Kinh đã giải thích các điểm khác biệt giữa các Thánh Sử theo các nguyên tắc của khoa văn hình sử – khoa học lịch sử hình thành văn chương. Họ giải thích rằng: các khác biệt đó bắt nguồn từ mấy yếu tố sau:

Do mỗi Thánh Sử cho ý hướng thần học riêng nên có thể sắp xếp sự kiện, lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thay đổi các con số, tên tuổi người liên quan, nơi chốn xảy ra sự kiện, hoặc thêm vào vài từ muốn nhấn mạnh trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu.

Do cộng đồng đón nhận Phúc Âm có những nét đặc thù. Thí dụ Matthêu dùng từ “Nước Trời” vì người Do Thái tránh kêu tên Thiên Chúa trong khi 3 Thánh Sử khác lại dùng từ “Nước Thiên Chúa” mà không sợ phạm huý.

Do định luật truyền miệng: các bản văn Phúc Âm là kết quả của những bài giảng truyền khẩu trong các cộng đồng giáo hội khác nhau, nên càng truyền miệng lâu từ người này sang người nọ thì con số càng ngày càng lớn, thí dụ như số người ăn, số thúng bánh vụn còn thừa lại trong các phép lạ hoá bánh ra nhiều, số thiên thần, số người được chữa lành…

3. Những hệ quả từ những lời giải thích khác nhau

Khi áp dụng cách cứng nhắc nguyên tắc của khoa văn hình sử, các nhà nghiên cứu Thánh Kinh cho rằng cùng một sự kiện xảy ra hay cùng lời giảng của Chúa Giêsu nhưng thánh Matthêu, Marcô, Luca, Gioan viết mỗi người một cách khác nhau do 3 yếu tố trên đây tác động. Vì thế, người ta không thể phân biệt đâu là sự kiện thật sự xảy ra, đâu là lời nói thật sự của Chúa Giêsu, đâu là các phần thêm vào từ phía con người. Do đó, Phúc Âm bây giờ chỉ còn là sách đạo đức đặc biệt vì kể lại cuộc đời của Đức Giêsu, chứ không phải được Chúa Thánh Thần linh hứng.

Có người đã nghĩ rằng nên tìm về bản văn gốc đầu tiên bằng tiếng Do Thái cổ của thánh Matthêu – nhưng bản này đã mất – để tìm sự chính xác. Giá trị theo thời gian: tiếp theo là bản văn của Marcô và của thánh Matthêu viết bằng tiếng Hy Lạp vào khoảng năm 55-60, rồi đến bản văn của thánh Luca xuất hiện vào khoảng năm 65, sau cùng vào khoảng năm 90 mới có bản văn của thánh Gioan.

Hơn nữa, khi nhà thần học Tin Lành Rudoft Bultmann (1884-1976), vào những năm 1940-1960, chủ trương giải trừ những huyền thoại ra khỏi Phúc Âm, để cho con người thời nay chuộng khoa học thực nghiệm dễ đón nhận Lời Chúa hơn, thì nhiều anh em Tin Lành mất hẳn lòng tin vào Thánh Kinh, dù trước đây họ hoàn toàn tin tưởng và lấy Thánh Kinh làm tiêu chuẩn cho đời sống. Nguy hiểm hơn nữa là một số nhà thần học Thánh Kinh Công giáo cũng bị ảnh hưởng bởi chủ thuyết này và đang dạy trong các chủng viện, đại học. Chính vì thế chúng ta muốn suy niệm vấn đề Thánh Kinh này để tìm lại niềm xác tín hoàn toàn vào Chúa Giêsu Kitô.

4. Lập trường của Giáo hội Công giáo

Giáo hội Công giáo rất trân trọng những đóng góp giá trị của các nhà nghiên cứu Thánh Kinh, của các khoa học xã hội nhân văn liên quan đến Thánh Kinh cũng như cố gắng giải thích những vấn nạn Thánh Kinh theo những khám phá đúng đắn của các khoa học này.

Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế tín lý về mạc khải Dei Verbum, số 12, đã nói rõ về các điểm này: “Vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy, nên phải tìm hiểu chủ ý của Thánh Sử, xét đến các thể văn khác nhau, chú ý đến hoàn cảnh thời đại, văn hoá và cách diễn tả của từng Thánh Sử…”. Hơn nữa “Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Thần… và tuỳ thuộc vào phán quyết của Giáo Hội vì Giáo Hội được Thiên Chúa giao cho sứ mệnh và chức vụ gìn giữ và giải thích lời Chúa”.

Trong các sách Phúc Âm, Chúa Thánh Thần là tác giả trực tiếp và các vị Thánh Sử cũng là tác giả thật sự. Các ngài được Chúa dùng để ghi chép lại các lời dạy và sự kiện của Chúa Giêsu để truyền lại cho chúng ta. Mỗi vị Thánh Sử có ý hướng thần học riêng và viết Phúc Âm cho những cộng đồng khác nhau. Vì thế, các ngài đã chọn những biến cố, ghi lại từng lời của Chúa Giêsu trong những hoàn cảnh khác nhau cho phù hợp với cộng đồng mà mình gửi đến, phù hợp với ý hướng thần học mà Chúa soi sáng, nhưng chính các ngài không làm sai lạc sự kiện hay biến đổi một lời nào của Chúa Giêsu.

Lý do là vì uy thế tối thượng của Chúa Giêsu và uy tín tối cao của cộng đoàn Giáo Hội không cho phép các Thánh Sử sửa đổi, thêm thắt theo ý riêng mình. Hơn nữa, nếu hành động như thế họ còn xúc phạm đến Chúa Thánh Thần, và chắc chắn cộng đồng Dân Chúa sẽ loại trừ những nguỵ thư không đúng với sự thật.

5. Những đường hướng giải đáp các vấn nạn

Chúng tôi xin giới thiệu những đường hướng giải đáp các vấn nạn và mong ước các nhà nghiên cứu Thánh Kinh hay thần học bổ khuyết cho những cố gắng của chúng tôi.

5.1. Giải đáp về lời rao giảng của Chúa Giêsu

Chúng ta nên nhớ: Chúa Giêsu rao giảng Phúc Âm 3 năm, khoảng 1.000 ngày, mỗi ngày vài giờ, thì tổng cộng Người rao giảng có đến vài ba ngàn giờ. Nhưng nếu ta thử ghi âm toàn bộ những lời Chúa Giêsu nói trong 4 cuốn Phúc Âm, ta thấy chỉ kéo dài khoảng 1 giờ, nghĩa là các Thánh Sử chỉ mới ghi được một phần ngàn những lời của Chúa. Chúa Giêsu nói rất nhiều, Người có thể lặp lại một phần giáo lý Người giảng tuỳ theo mỗi hoàn cảnh khác nhau, mỗi đối tượng nghe khác nhau, nên mỗi vị Thánh Sử đã chọn ghi những lời của Chúa chứ không phải thay đổi lời Người theo ý mình. Bốn vị Thánh Sử ghi những lời Chúa trong các trường hợp khác nhau như vậy để chúng ta có thể áp dụng trong những hoàn cảnh đổi thay của đời sống tuỳ theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần.

5.2. Giải đáp về các phép lạ của Chúa Giêsu

Điều lầm tưởng lớn nhất là người ta nghĩ Chúa Giêsu chỉ làm vài chục phép lạ vì toàn bộ Phúc Âm chỉ có khoảng 30 bài tường thuật về phép lạ trong Phúc Âm Nhất Lãm và 5 bài trong Phúc Âm của Thánh Gioan. Trong số 25 bài tường thuật chữa bệnh, có 7 bài lồng thêm việc trừ quỷ để khỏi bệnh, và khoảng 10 bài về hành động của Đức Giêsu trên vạn vật. Đây là các bài tường thuật chi tiết với hoàn cảnh rõ ràng. Mục đích các bài này có tính chất dạy giáo lý để khơi dậy lòng tin vào Đức Giêsu. Chúng ta tạm gọi các bài đó là văn loại chính.

Người ta so sánh các bài này với nhau, nhất là trong tác phẩm nổi tiếng Synopsis Quattuor Evangeliorum bằng tiếng Hy Lạp của Kurt Aland, đã được Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch sang tiếng Việt là Đối Chiếu Bốn Sách Tin Mừng, xuất bản năm 2004. Nhiều người tưởng lầm rằng Chúa Giêsu chỉ làm một phép lạ nào đó nhưng được các Thánh sử ghi lại cách khác nhau, chứ không nghĩ rằng Chúa Giêsu có thể đã thực hiện hàng ngàn, hàng vạn phép lạ trong 3 năm hoạt động của Người. Điều này được chứng minh qua các văn loại phụ.

Văn loại phụ gồm những lời tóm tắt tổng quát, kể cách chung chung về hành động của Đức Giêsu. Thí dụ như: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ…” (Mc 1,32.34; 3,10-12; 6,55-56; Mt 9,35.14,14; 15,30-31; 19,2; 24,24; Lc 5,15-17; 7,21). Rồi ta còn phải kể thêm các lời ám chỉ: “Người không thể làm được phép lạ nào tại đó” (Mc 6,5) hoặc ghi lại phản ứng của người không tin: “Hêrôđê tin Đức Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại vì Người làm nhiều phép lạ” (Mc 6,14-16), các ghi nhận về hành động cứu độ của Chúa Giêsu (x. Mc 15,31; Mt 9,34; 10,25; 12,24; Lc 23,8…), các lời đáp của Chúa Giêsu (x. Mt 11,5-6; 11,21-24; Mt 12, 25-29), các diễn từ ở Công vụ Tông đồ: Cv 2,22; 10,38…

Thí dụ: Nhiều nhà Thánh Kinh Công giáo nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ làm 1 phép lạ cứu chữa cho con gái ông Giairô, rồi các Thánh Sử kể mỗi người mỗi khác, miễn là nói rõ được hành động làm cho kẻ chết sống lại là chính, còn việc chết rồi hay chưa chết khi ông Giairô đến xin Chúa Giêsu chỉ là chi tiết nhỏ nhặt, không cần phải quan tâm! Hơn nữa vì các bản tường thuật phép lạ có mục đích giáo huấn về đức tin, chứ không phải giống như bản tường thuật thời sự của các phóng viên báo chí thời nay, nên không đòi sự chính xác tuyệt đối.

Trái lại, chúng tôi cho rằng các Thánh Sử hoàn toàn tôn trọng từng chi tiết nhỏ mọn nhất, bảo đảm sự thật tuyệt đối về Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta có thể xác định điều đó nếu chúng ta hiểu rằng phép lạ về con gái ông Giairô của mỗi Thánh Sử là hoàn toàn khác nhau. Tên Giairô là tên phổ biến ở nước Do Thái, còn chức vụ trưởng hội đường thì vào thời đó, nước Do Thái có hàng trăm hội đường, và có cả chục ông có con gái nhỏ. Chúng ta đừng lạ vì chỉ 12 tông đồ thôi cũng đã có 3 cặp trùng tên: Giacôbê, Simon, Giuđa (x. Lc 6,12-16).

Nhiều người chối bỏ phép lạ vì bị ảnh hưởng bởi khuynh hướng giải trừ huyền thoại của ông Bn, nhưng Thượng Hội đồng Giám mục 2012 yêu cầu chúng ta phải nhận ra: “Công trình Phúc Âm hoá của Chúa Giêsu gắn liền với 2 hoạt động: chữa bệnh và tha thứ… Và việc giải thoát khỏi quyền lực ma quỷ là một dấu chỉ rằng: “Nước Thiên Chúa đã đến giữa chúng ta” (Mt 12,28) và Tin Mừng, món quà cứu rỗi cho mọi người, dẫn đưa chúng ta vào một tiến trình biến đổi và thông phần vào sự sống của Thiên Chúa, Đấng đổi mới chúng ta ngay từ giờ phút hiện tại” (TLLV, số 29).

Một khi gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô và kết hợp mật thiết với Người, chúng ta sẽ thấy những phép lạ trở thành hoạt động thường xuyên của người thừa sai để bảo đảm cho lời rao giảng của chúng ta (x. Mc 16,17-20). Do đó, nếu Chúa Giêsu đã làm hàng ngàn phép lạ thì việc Chúa Giêsu chữa 1 hay 2 người mù ở Giêricô, 1 hay 10 người phong cùi, nhiều phép lạ hoá bánh ra nhiều đều có thật và các Thánh Sử được quyền tự do chọn lựa chúng.

5.3. Giải đáp về biến cố Vượt Qua của Đức Giêsu

Một số vấn nạn liên quan đến cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô cũng được giải đáp hợp lý nếu chúng ta quan tâm đến văn hoá và lịch sử dân tộc Do Thái. Nhờ khám phá mới đây về nền văn hoá của người Do Thái thời Chúa Giêsu, người ta thấy rằng tục lệ xức dầu thơm trên xác người chết diễn ra trong 3 ngày, nên cửa mộ chỉ đóng hờ bằng tảng đá lớn và cả 4 Thánh Sử đều ghi đúng sự việc xảy ra.

Việc nhìn thấy 1 hoặc 2 thiên thần không phải là kết quả phóng đại của luật truyền miệng nhưng là một sự thật: các Thánh Sử thấy sao nói vậy! Nếu nhìn từ ngoài vào trong mộ, thông qua cửa mộ chật hẹp, người ta chỉ thấy 1 thiên thần. Tuy nhiên, nếu bước vào trong lòng mộ, người ta sẽ thấy hết được tảng đá dài, nơi đặt thi hài người chết trên đó, mới thấy được “2 thiên thần, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân” (Ga 20,12).

Danh sách các phụ nữ đến mộ theo thánh Luca là chính xác, nghĩa là có nhiều bà, rồi tuỳ vào cộng đồng đón nhận bản Phúc Âm mà các Thánh Sử ghi rõ tên từng người hoặc tuỳ vào bài học gắn bó với Chúa Phục Sinh như Thánh Gioan ghi lại về trường hợp của Maria Magdala.

Những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh rất hợp lý và chúng ta có thể lập thành biểu đồ với thời điểm tương đối rõ ràng về 14 lần hiện ra của Đấng Phục Sinh. Dù các môn đệ có nghe theo lời các phụ nữ đến Galilê đi nữa, thì cuộc hiện ra ở Giêrusalem vào chiều Chúa Nhật vẫn thực hiện được nếu chúng ta hiểu được bản chất cuộc sống lại của Đức Giêsu là một cuộc sáng tạo con người mới, không bị lệ thuộc vào vật chất, không gian và thời gian để sống bằng sức sống phi thường, kỳ diệu của chính Thiên Chúa. Nhờ khám phá ra 14 lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng tôi cũng biên soạn thành Đường Ánh Sáng theo Thánh Ignatiô Loyola nhằm giúp cho đời sống đạo của người Việt Nam thêm những niềm vui và hy vọng để quân bình hơn thay vì chỉ quen đi Đàng Thánh Giá, suy niệm về cái chết, đau khổ và thử thách của Chúa Giêsu.

Lời kết

Sau khi tìm hiểu vài vấn nạn liên quan đến niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu Kitô, chúng tôi hy vọng người thừa sai chúng ta đặt trọn niềm xác tín vào Đức Giêsu Kitô. Hành trình đức tin hay con đường dẫn ta tới gặp gỡ Chúa Giêsu luôn mời ta phải cố gắng bước tới bằng cách tìm hiểu, học hỏi. Mỗi bước tiến mới sẽ giúp ta nhìn rõ khuôn mặt Chúa Giêsu ở trong ta hơn, đồng thời cũng cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc và ơn cứu độ để ta có thể chia sẻ Tin Mừng Giêsu cho người khác.

 

Câu hỏi gợi ý suy tư:

1. Bạn có thắc mắc hay nghi ngờ gì về lời dạy của Chúa Giêsu?

2. Bạn có nghi vấn gì về hành động của Chúa Giêsu?

3. Có phép lạ nào của Chúa Giêsu khiến bạn nghi ngờ?

4. Bạn có thắc mắc gì về cái chết và cuộc sống lại của Chúa Giêsu?

 

Bài 5

Gắn bó với Chúa Giêsu
trong cái chết của Người

Lời mở

Để có thể rao giảng TM của Chúa Giêsu, chúng ta phải xác tín về mầu nhiệm Vượt Qua của Người, nghĩa là về cái chết và cuộc sống lại của Chúa Giêsu. Trước hết, chúng ta tìm hiểu về cái chết của Người. Chúng ta có thể tóm tắt vài điểm cơ bản sau đây:

Lời tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô. Người chịu khổ hình và mai táng”: là đặc điểm của niềm tin Kitô giáo so với các tôn giáo khác. Các tôn giáo khác thường chỉ muốn suy tôn vị sáng lập tôn giáo trong ánh hào quang, còn Kitô giáo lại nói về cái chết bi thảm của Đức Giêsu.

Cái chết của Đức Giêsu vừa là một sự kiện lịch sử vừa là một mầu nhiệm nên cần khám phá bằng lý trí dưới ánh sáng đức tin. Việc khám phá này cần thực hiện liên tục trong đời sống chứ không phải một lần là được. Mỗi lần cố gắng là chúng ta luôn khám phá ra những điểm mới và có những bước tiến mới trong đời sống

Cái chết này gắn bó với cuộc sống lại thành một biến cố duy nhất giống như hai mặt của một thực tế (x. 1Cr 15; 1Ts 4,14; 1Pr 3,18). Nếu chỉ quên đi một mặt, ta sẽ không thể nhận định rõ và sống đúng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô: để rồi bi quan về cái chết hoặc ảo tưởng về cuộc sống lại.

1. Những dữ liệu lịch sử

1.1. Cả bốn sách Phúc Âm đều kể về cái chết và cuộc sống lại của Đức Giêsu, một số sách khác trong Tân Ước, sử gia Tacitus người Rôma, sách Tamud của người Do Thái… cũng nói đến cái chết này. Đây là những dữ liệu lịch sử chắc chắn và cái chết của Đức Giêsu là một thực tại lịch sử.

1.2. Sự kiện xảy ra là: Đức Giêsu Nazareth đã bị quan toàn quyền người Rôma là Phongxiô Philatô kết án đóng đinh trên thập tự do áp lực của các thượng tế và kỳ mục người Do Thái vào ngày thứ Sáu, 7 tháng 4 năm 30 (một số ít sử gia khác tính vào ngày 3 tháng 4 năm 33), ngày áp lễ Vượt Qua, 14 tháng Nisan (x. Mt 27,45-54; Mc 15,33-39; Lc 23,44-48; Ga 19,31). Giáo hội Công giáo đã giữ truyền thống cử hành ngày Chúa Giêsu chịu chết tương ứng với lễ Vượt Qua của người Do Thái thay vì cử hành vào đúng ngày 7 tháng 4 hằng năm.

1.3. Lý do Đức Giêsu bị kết án: người ta muốn quy trách nhiệm việc xử án bất công cho công nghị Do Thái hoặc quan toàn quyền Rôma. Thực sự chính vì cuộc sống của Đức Giêsu: thái độ của Người đối với lề luật, với ngày Sabat, với các tội nhân, hành động của Người trong việc trừ quỷ, tha tội, xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem, một số lời dạy của Người có vẻ như chống lại thái độ người cầm quyền nên người ta muốn tận diệt Đức Giêsu.

2. Giải thích về cái chết của Đức Giêsu

2.1. Khởi đầu các môn đệ sửng sốt, không hiểu. Truyền thống Do Thái không nói đến việc Đấng Mêsia bị chính dân tộc chối từ và giết đi. Sau đó cộng đồng Kitô hữu sơ khai mới hiểu được ý nghĩa của thập giá và coi đó là nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa (x. Cv 2,23; 4,28; Pl 2,8). Hơn nữa, cộng đồng đang sống trong hoàn cảnh bị đàn áp, bách hại nên tìm cách áp dụng cuộc khổ nạn của Đức Giêsu vào đời sống của mình.

2.2. Cuộc khổ nạn – sống lại của Đức Giêsu xảy ra theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và báo trước: “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh, rồi Người đã được mai táng và ngày thứ ba đã trỗi dậy đúng như lời Thánh Kinh” (1Cr 15,3-4). Vì thế, các Kitô hữu sơ khai dựa vào Thánh Kinh để khám phá ra ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu qua các hình ảnh: Abel bị giết, Giuse bị bán làm nô lệ, tiên tri Giêrêmia bị bách hại, Israel bị lưu đầy, chiên lễ Vượt Qua…

2.3. Đức Giêsu tự hiến dâng chính mình cho Thiên Chúa như của lễ đền tội cho con người (x. 1Cr 11,24; Lc 22,19… “Đây là mình Thầy hiến tế vì anh em…”. Người là tôi tớ Giavê được tiên tri Isaia báo trước: “Chính Người đã bị đâm vì chúng ta đã phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm… Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu… Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, Người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo… Đức Chúa đã muốn Người phải bị nghiền nát vì đau khổ… (x. Is 52,5-10).

2.4. Đức Giêsu chết để thiết lập giao ước mới với Thiên Chúa:  “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” (x. Mt 26,28; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25).

2.5. Tại sao Chúa Giêsu lại phải chết để đền tội cho con người và giao hoà với Thiên Chúa?

Chúng ta hãy tưởng tượng hai đứa bé chửi nhau: “mày là đồ ăn cắp” rồi dẫn đến bất hoà. Để hoà giải, một người lớn có thể nói: “Thôi, hai cháu xin lỗi nhau và làm hoà với nhau đi!”. Như thế là đủ.

Nhưng đứa bé nói lời vô lễ đó với ông chủ tịch quận hay thành phố, thì không phải ai cũng hoà giải đôi bên được. Cần một người trung gian có địa vị tương xứng và quen biết cả hai bên thì việc hoà giải mới tốt đẹp. Nếu người bị xúc phạm là ông vua thì người hoà giải phải là vị hoàng hậu hay quan tể tướng. Như thế, một hành vi xấu xa xúc phạm đến người có địa vị càng cao thì tội càng nặng. Từ đó ta hiểu được hành động của con người xúc phạm đến Thiên Chúa nặng nề vô cùng, không ai có thể đền bù và hoà giải nếu không phải là chính Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, dám nhận trách nhiệm này.

3. Kinh nghiệm của Đức Giêsu về sự chết

Chúng ta muốn tìm hiểu khía cạnh thâm thuý, tinh vi của mầu nhiệm thập giá tiềm ẩn trong cõi lòng sâu thẳm của Đức Giêsu, trong ý thức và trong chính bản thể của Người. Chắc chắn ít ai trong chúng ta có kinh nghiệm về cái chết vì chúng ta chưa chết nhưng chúng ta có thể hiểu được nhờ suy luận và ơn Chúa soi sáng qua lời cầu nguyện.

Ta có thể xác tín rằng: Đức Giêsu là người thế nào thì sẽ chết thể ấy: Người chết như con người, như Đấng Kitô, như Ngôi Lời Thiên Chúa.

3.1. Con người Giêsu chết

Vì là con người nên khi đối mặt với cái chết, Đức Giêsu cũng kinh hãi, run sợ do bản năng bảo tồn sự sống như bất cứ sinh vật nào. Theo truyền thống Do Thái: chết là hết hy vọng, xa cách nguồn sống, xa cách Thiên Chúa (x. Tv 6,6; 88,11-13; Is 38,18…). Hơn nữa, Người còn bị giết chết nhục nhã giữa tuổi thanh xuân (x. Is 53,2-3) với khổ hình dành cho hạng người nô lệ.

Một mảnh dằm nhỏ cắm vào da thịt ta cũng làm cho chúng ta cảm thấy nhức nhối, huống chi Đức Giêsu với tay chân bị đóng đinh vào thập giá, đầu bị những chiếc gai nhọn đâm thâu, lượng máu mất dần qua những vết thương, bị sức nặng cơ thể kéo xuống làm cho ngộp thở từng giây và Người phải ấn đôi chân trên điểm tựa bị đóng đinh để cố gắng hít từng hơi thở nhỏ trong suốt quãng thời gian hấp hối đến 3 giờ chiều, ta mới hiểu nỗi đớn đau khủng khiếp trên thân xác của Người.

Cái chết còn nói lên thực trạng con người dính líu với tội lỗi (x. Rm 5,12; 8,3), nhất là Đức Giêsu lại vô tội (x. 2Cr 5,21). Vì thế, nỗi đau tinh thần còn khủng khiếp hơn: ngoài nỗi đau buồn bị môn đệ bỏ rơi, quần chúng chế nhạo, trong đó có cả những người nhận phép lạ của Người cũng muốn loại trừ Người, Đức Giêsu thật sự đau khổ. Tuy nhiên, với tất cả sự tự nguyện và ý thức về tình yêu của Người Con đối với Cha mình, Người cầu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hình mình (x. Lc 23,34) và tin tưởng đọc lên lời nguyện cuối cùng: “Lạy cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46: Tv 31,6).

Cử chỉ nhân bản nhất của Đức Giêsu trước khi chết là Người không muốn để mẹ mình bị lẻ loi. Người trao phó mẹ cho môn đệ yêu dấu của Người cũng như muốn người đó được mẹ Người chăm sóc, chỉ dạy. Đức Giêsu nói với mẹ Maria: “Thưa Bà, đây là con Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh” (Ga 19, 26-27).

3.2. Đức Giêsu chết như Đấng Mêsia

Đấng Mêsia là hiện thân của những gì Đức Giavê hứa với dân Israel trong suốt dòng lịch sử: từ hình ảnh Mêsia là một ông vua đến thiết lập vương quốc, qua Mêsia tiên tri với biểu tượng là tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa cho đến Mêsia Tư tế, Mêsia Con Người theo tiên tri Đanien (Đn 7). Đức Giêsu thực hiện tất cả theo từng chi tiết đã được ghi trong Thánh Kinh mà chúng ta không thể nào kể hết trong vài phút này. Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ vài điều cơ bản:

– Người là Mêsia Vua từ việc đội mão gai cho đến bản án ghi trên đầu thập giá: “Giêsu Nazareth Vua dân Do Thái”. Ngay cả việc an táng Đức Giêsu trong nấm mộ mới (x. Mt 27,60; Lc 23,53; Ga 19,41) và việc liệm xác với hợp chất gồm mộc dược và trầm hương “chừng 100 cân” (x. Ga 19,39-40) có thể nói là bất ngờ, vượt quá thói quen chôn xác: đây là việc chôn cất theo cung đình. Với cách chôn cất này, Người vẫn là vua, ngay trong tình cảnh bi thảm nhất (x. ĐGH. Bênêđictô, Đức Giêsu thành Nazareth, tập II, chương 8).

– Ngài là Mêsia Tiên tri vì chết như người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa vì mang lấy tất cả tội lỗi của toàn thể nhân loại. Người cảm thấy như bị Chúa Cha thánh thiện xua đuổi, bỏ rơi: “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ con?” (Mt 27,46; Mc 15,34). Thật ra, Thiên Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi Con của mình cũng chẳng bỏ con người Ngài đã dựng nên. Tiếng kêu của Đức Giêsu chính là tiếng kêu của Đấng Mêsia thay cho tất cả mọi người đau khổ trước sự vắng bóng của Thiên Chúa, phải sống trong bóng đêm, không thấy được Thiên Chúa. Tiếng kêu khởi đầu của Thánh vịnh 22 này sẽ kết thúc trong niềm tin tưởng, hy vọng cứu độ và chiến thắng của tình yêu (x. ĐGH. Bênêđictô XVI, Đức Giêsu thành Nazareth, tập II, chương 8).

Người là Mêsia Tư tế vừa dâng lễ vật là chính mình Người trên bàn thờ thập giá để chuyển cầu cho muôn dân. Chính khi Người gục đầu trên thập giá, Đức Giêsu Thượng tế đi vào trong cung thánh vĩnh cửu, màn trong Đền thờ Giêrusalem bị xé ra làm đôi (x. Lc 23,45) để từ nay Thiên Chúa mở rộng cửa lòng cho tất cả mọi người. Khi người lính đâm ngọn giáo vào cạnh sườn bên phải, vào thẳng trái tim Đức Giêsu, “tức thì máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34), đó là giờ các chiên Vượt qua bị giết. Đức Giêsu chính là con chiên Vượt Qua thanh khiết và hoàn hảo như Gioan Tẩy Giả giới thiệu lúc khởi đầu (x. Ga 1,29). Không một chiếc xương nào của Người bị gãy theo đúng yêu cầu của lễ vật (x. Xh 12,46; Tv 34, c. 20-21). Việc rút thăm chiếc áo dài không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới (x. Ga 19,23-24) theo Thánh Vịnh 22,19 và qua thông tin của sử gia Flavius Josephus (x. Ant. Iud. III, 7, 4) muốn nhắc đến phẩm giá thượng tế của Đức Giêsu. Ngay trong giây phút bị chà đạp danh dự đến tột đỉnh, Người vẫn hoàn tất sứ vụ tư tế của mình (x. Đức GH. Bênêđictô, Đức Giêsu thành Nazareth, tập II, chương 8).

Hành động của Đức Giêsu Mêsia là mẫu mực cho hành động của chúng ta, vì chúng ta cũng là Kitô hữu và nhận lãnh sứ mạng Kitô như Người.

3.3. Đức Giêsu chết như Thiên Chúa

Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54) xác định tính chất cao cả nhất trong cái chết của Đức Giêsu.

Thiên Chúa có thể trở thành con người thì cũng có thể chết như con người. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Người không có gì ở nơi mình để chết vì chúng ta, nếu Người đã không nhận lấy xác phàm phải chết của chúng ta. Như thế, Đấng bất tử có thể chết. Người làm thế là vì muốn ban sự sống cho ta, vì với những gì chúng ta có xưa, chúng ta không thể sống, cũng như với những gì là của Người trước kia, Người không thể chết. Do đó đã có một cuộc trao đổi lạ lùng, trong đó cả 2 bên đều góp phần: phần của ta khiến Người phải chết, còn phần của Người khiến ta được sống (x. T. Augustinô, Bài Đọc II, thứ Hai Tuần Thánh, Các Giờ Kinh Phụng Vụ ).

Vì Thiên Chúa là tinh thần tuyệt đối, vượt lên trên không gian và thời gian nên hành động của Thiên Chúa mới có thể lan rộng tới mọi người, mọi vật ở bất cứ đâu và vào bất cứ thời điểm nào. Do đó, cái chết giao hoà với Thiên Chúa của Đức Giêsu mới mang lại ơn cứu độ cho toàn thể thụ tạo trong bất cứ thời nào.

Vì Thiên Chúa là tình yêu vô biên và quyền năng tuyệt đối nên Ngài có thể làm bất cứ điều gì để diễn tả tình yêu của mình. Đức Giêsu đã muốn chết như một vị Thiên Chúa làm người để diễn tả “tình yêu cho đến cùng của Người” (Ga 13,1) và “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Người chịu khổ nhưng không bị huỷ diệt và nhờ đó Người mới lấy cái chết của mình để cứu chuộc chúng ta. Trên thập giá, Thiên Chúa xuất hiện như Đấng hoàn toàn tự do trong tình yêu. Tình yêu tuyệt đối là trao hiến chính mình một cách hoàn toàn cho người mình yêu.

Cái chết nói lên bản chất của thụ tạo và tính liên đới của vũ trụ vạn vật với Ngôi Lời Thiên Chúa, vì tất cả được dựng nên nhờ Người và cho Người. Cái chết của Chúa Giêsu mang chiều kích vũ trụ, nên vạn vật đồng cảm với Người: “Bóng tối bao phủ khắp mặt đất từ giữa trưa cho đến 3 giờ chiều. Đất rung, đá vỡ, mồ mả bật tung và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy” (x. Mt 27,45.51-52; Mc 15,33; Lc 23,44-55).

4. Những bài học được mạc khải từ cái chết này

4.1. Bức màn trong đền thờ Giêrusalem bị xé ra làm đôi từ trên xuống dưới (Mt 27,51-53) muốn nói lên nhiều điều: Thiên Chúa không còn xa cách con người nhưng rất gần với con người và vũ trụ vạn vật. Một tôn giáo mới mẻ và phổ quát bắt đầu với cái chết của Chúa Giêsu: thân xác Chúa Giêsu như bức màn để ta đi qua và gặp được Thiên Chúa.

4.2. Thiên Chúa là tình yêu: yêu đến độ chết cho con người (x. Ga 3,16; 1Ga 4,10; Rm 8,32) cách vô điều kiện (x. Ga 10,11.17.19; Rm 5,8). Đó là bài học căn bản nhất (x. Gl 2,20; Ep 5,2.25).

4.3. Thiên Chúa đáng kinh sợ: vì tình yêu Thiên Chúa như ngọn lửa thiêu rụi mọi dấu vết tội ác và biến đổi tất cả thành tốt lành, thanh khiết nhờ Thánh giá Chúa Giêsu. Phải dám đóng đinh mình vào Thánh giá với Chúa Giêsu và yêu thương vô vị lợi như Người, chúng ta mới có khả năng cứu độ thế giới.

4.4. Cần phải có tình yêu để giải quyết vấn đề đau khổ và sự dữ: đau khổ là một mầu nhiệm không thể thấu triệt, cần biết nhẫn nại chịu đựng. Cần phân biệt đau khổ và sự dữ, sự dữ không phải là một thực tại mà chỉ là việc vắng bóng sự thiện (privatio). Dù sự dữ do bất cứ ai gây nên, ta cũng bắt chước Đức Giêsu dùng đau khổ để thắng sự dữ, dùng cái chết để tìm sự sống lại.

4.5. Kenosis là hành động từ bỏ chính mình (Pl 2,6-11). Đây là chìa khoá quan trọng để hiểu biết và giải thích trọn vẹn về cái chết của Chúa Giêsu Kitô: đó là quyết định vĩnh viễn của Ngôi Lời khi nhận lấy nhân tính sa đoạ để hoà mình vào xã hội trần thế và cũng là quyết định của Đức Giêsu để sống trọn thân phận thấp hèn trong xã hội này chỉ vì yêu chúng ta và để cứu chúng ta (x. Pl 2,10-11; Ep 1,20-22). Đây cũng là con đường tự huỷ của người môn đệ Đức Kitô. Kenosis là một con đường chứ không phải là mục đích. Đức Giêsu trở thành Thiên Chúa cho con người và con người cho Thiên Chúa qua cái chết của Người trong một tình yêu hỗ tương. Thiên Chúa chết vì loài người để loài người chết cho Thiên Chúa. Khi con người đạt được điểm này là con người trở thành Thiên Chúa.

4.6. Chúng ta không được hổ thẹn vì cái chết của Chúa Giêsu, mà phải hết sức tin tưởng, tự hào, vui mừng tuyên xưng vì Người yêu thương, cứu độ và làm cho ta trở nên Thiên Chúa nhờ cái chết của Người. “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Gl 6,14).

Lời kết

Đức Kitô đã vượt qua cái chết để đến vinh quang Phục Sinh, ta cũng phải biết cùng chết với Người để mang lại ơn cứu độ và chia sẻ vinh quang cho mình và cho người khác (x. Rm 6,6; Gl 5,24).

           

Bài 6

Loan báo Đức Giêsu Phục Sinh với niềm xác tín

Lời mở

Chúa Giêsu Phục Sinh là tâm điểm của toàn bộ lời rao giảng của các tông đồ cũng như của tất cả đời sống đức tin của tín hữu vì “nếu Đức Kitô không sống lại, lời rao giảng của chúng tôi sẽ vô ích và lòng tin của anh em cũng thực là trống rỗng…” (1Cr 15,14-19). Do đó, chúng ta phải tập trung sự chú ý và học hỏi thật nhiều về Đấng Phục Sinh.

Chúng ta đã tìm hiểu Chúa Giêsu chết như một con người, như Đấng Mêsia và như Ngôi Lời Thiên Chúa. Cái chết của Người không phải là hậu quả tất yếu của tội lỗi, từ nguyên tội của con người vì Đức Giêsu không phạm tội, nhưng đến từ sự khiêm hạ của Thiên Chúa, là hoạt động của tình yêu Thiên Chúa xuống với con người để đưa con người về với Thiên Chúa (x. ĐGH Bênêđcitô XVI, Đức Giêsu thành Nazareth, phần II, chương 9 “Cuộc phục sinh của Đức Giêsu từ trong cõi chết”). Vì thế, cuộc sống lại của Đức Giêsu cũng sẽ là hậu quả tất yếu của tình yêu Thiên Chúa.

Cuộc sống lại này được diễn tả bằng hai bằng chứng: ngôi mộ trống và các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về những bằng chứng này để tăng thêm sự hiểu biết và niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, vì cuộc sống lại của Đức Giêsu vừa là sự kiện có thật xảy ra trong lịch sử mà ta phải dùng lý trí để tìm hiểu, vừa là một mầu nhiệm mà ta cần phải có đức tin để khám phá ra những ý nghĩa của sự kiện này.

1. Ngôi mộ trống

Qua bài Tin Mừng của Lễ Canh thức Vượt Qua (x. Lc 24,1-12) cũng như của Lễ Phục Sinh (x. Ga 20,1-9), Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm về ngôi mộ trống như dấu hiệu đầu tiên chứng minh Đức Giêsu đã sống lại.

1.1. Ngôi mộ an táng Chúa Giêsu và các dữ liệu liên quan

1.1.1. Cách thức an táng của người Do Thái

Trước hết, chúng ta nên tìm hiểu đôi chút về ngôi mộ và cách an táng của người Do Thái, dù một số anh chị em có lẽ cũng biết rồi. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ, nghĩ đến mộ là nhớ đến hình ảnh rất quen thuộc trong các nghĩa trang ở nước ta: người ta đào một huyệt lớn rộng khoảng 1m, dài 2m, sâu 2m rồi đặt quan tài xuống đó. Nếu hiểu như vậy, ta sẽ rất khó hình dung ra ngôi mộ an táng Chúa Giêsu và các chi tiết về cuộc sống lại của Người.

Ở nước Do Thái, người ta không đào huyệt và chôn người chết trong quan tài như ở Việt Nam. Do có nhiều đồi núi nên người ta thường khoét sâu vào trong sườn đồi một hang nhỏ, rộng khoảng 4-5m2, kê một phiến đá phẳng rồi đặt người chết nằm trên phiến đá đó. Mộ có cửa nhỏ để người ta chui vào. Bên trong lòng mộ khoét rộng để một vài người có thể đứng tẩm liệm. Tuỳ theo người giàu hay người nghèo mà ngôi mộ rộng/hẹp khác nhau. Người ta tẩm liệm xác chết bằng cách quấn thật nhiều băng vải, trên mặt thì đặt một khăn dài, rồi đổ dầu thơm và mộc dược lên trên để có thể giữ xác không bị thối rữa trong vòng 3-4 ngày. Trong 3 ngày đầu sau cái chết, người thân thường đến mộ để tẩm liệm. Từ ngày thứ 4, người ta mới đóng cửa mộ và trét vữa kín để xác thân tự huỷ, không bốc mùi ra ngoài.

Chúa Giêsu được táng trong một ngôi mộ mới và được tẩm liệm theo nghi thức của một vị Mêsia vua với cả trăm cân mộc dược và thuốc thơm (x. Ga 19,41). Bên ngoài có một tảng đá lớn che cửa mộ (x. Mt 27,60; Lc 23,58; Ga 1,19,41), nhưng chưa đóng kín mộ vì còn trong thời gian tẩm liệm. Sau khi được mai táng, các thượng tế đã xin Philatô niêm phong ngôi mộ Chúa Giêsu và đặt các binh lính của đền thờ canh ngôi mộ hết sức cẩn thận (x. Mt 27,62-66).

1.1.2. Sự kiện ngôi mộ trống và các dữ kiện liên quan

Chúa Giêsu được mai táng trong mộ có nghĩa là Người đã đi đến tận cùng của cái chết. Người đã chết một cách nhục nhã và đã được mai táng thật sự chờ ngày thân xác thối rữa, hư nát như bất cứ người chết nào ở trần thế. Tuy nhiên, ngôi mộ chôn táng Đức Giêsu bây giờ trống rỗng! Bài Tin Mừng cũng tả rõ: tảng đá che cửa mộ đã lăn sang một bên, không còn xác Chúa Giêsu bên trong (x. Ga 20,1-2). Hai môn đệ Phêrô và Gioan được báo tin đã chạy tới ngôi mộ và thấy không còn người lính nào canh gác ở đấy. Các băng vải và khăn che mặt Đức Giêsu đã xếp gọn gàng để riêng ra một nơi (x. Ga 20,7).

1.2. Lời giải thích về ngôi mộ trống

Trước hết, chắc chắn đã xảy ra một sự kiện lạ lùng nơi mộ Chúa Giêsu nên mới có chuyện tảng đá che cửa mộ tự nhiên lăn sang một bên và đám lính canh không còn túc trực khiến các phụ nữ và môn đệ đến mộ mà không bị xét hỏi. Thánh Matthêu giải thích: có một cơn động đất dữ dội và thiên thần Chúa từ trời xuống đến lăn tảng đá ra và ngồi lên trên khiến bọn lính canh và các phụ nữ hoảng sợ (x. Mt 28,1-4).

Thánh Phêrô, trong bài giảng đầu tiên cho người dân thành Giêrusalem, đã giải thích ngôi mộ trống rỗng là vì Thiên Chúa đã không muốn cho thân xác Đức Giêsu phải chịu cảnh hư nát trong mồ. Điều này ứng nghiệm những lời báo trước của thánh vịnh 16 mà người Do Thái thường đọc: “Thân xác con cũng được nghỉ ngơi trong niềm hy vọng vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống” (x. Cv 2,26-28).

Thánh Phêrô đưa ra bằng chứng: lăng tẩm chôn táng xác thân vua David vẫn tồn tại trước mắt người Do Thái, còn xác thân Đức Giêsu đã không còn trong mộ của Người nên đó là bằng chứng chỉ cho ta biết Người đã sống lại theo đúng lời Thánh Kinh. Vì nếu thật sự Người không sống lại, thì thân xác của Người vẫn còn nằm trong mồ, chịu sự hư nát và như thế lời Thánh vịnh 16 không biết sẽ nói về ai (x. Cv 2,29). Trong bài giảng khác (x. Cv 10,34.37-43), thánh Phêrô cũng nhắc lại lời làm chứng của mình về cuộc sống lại của Đức Giêsu.

Các thượng tế và luật sĩ đã từng lường trước việc các môn đệ Đức Giêsu có thể đến lấy trộm xác Người rồi phao tin đồn rằng Đức Giêsu đã sống lại như Matthêu đã nói về dự đoán này (x. Mt 28,11-15). Tuy nhiên, những ghi nhận về việc các dải băng liệm và khăn che mặt Đức Giêsu được xếp gọn gàng để lại trong mồ muốn giải thích điều bịa đặt kia là vô lý. Các môn đệ Chúa Giêsu làm sao có thể đương đầu với sức mạnh của quân lính đền thờ và quân đội Rôma nếu họ muốn đến gần mộ để cướp xác Người. Nếu làm vậy thì họ phải nhanh chóng ôm xác và thoát khỏi hiện trường càng sớm càng tốt thay vì ngồi lại gỡ từng tấm băng. Hơn nữa, họ ôm cái xác bất động của Chúa Giêsu về nhà làm gì vì khi còn sống, Đức Giêsu đã không cứu nổi mình thì khi chết rồi xác Người cứu được ai? Vì thế, tông đồ Gioan “đã thấy” các băng vải và khăn che mặt nên “đã tin” rằng Đức Giêsu thật sự trỗi dậy từ cõi chết như Người đã báo trước nhiều lần khi còn sống.

Chúng ta cũng không muốn nhắc đến những cuộc nghiên cứu khoa học đối với khăn liệm thành Turinô mới được công bố trong tác phẩm Il Mistero della Sindone ra mắt ngày 29/3/2013 của giáo sư Giulio Fanti và nhà báo Saverio Gaeta ở Ý, để xác định thật sự chất liệu vải in hình Chúa Giêsu đúng là thuộc vào thời của Người (x. Báo Thanh Niên, bài Rửa oan cho vải liệm Turin, ngày 3/4/2013, trang 10B).

 

1.3. Những ngôi mộ trống trong thời đại hôm nay

Dù chôn táng người chết thế nào, các ngôi mộ vẫn hằng ngày mọc lên trên khắp thế giới và rất nhiều lần người ta đã muốn chôn lấp trong đó những con người là hiện thân của Đức Giêsu (x. Mt 25). Họ là những nạn nhân của sự bất công và đói khổ, của phản bội và lọc lừa, của các thủ đoạn chính trị và đủ loại tội ác. Họ đang bị chôn sống ở đấy, bị gạt ra ngoài lề xã hội, và nhiều người đã thật sự chết.

Những ngôi mộ đó đang cần các môn đệ của Đức Giêsu như Maria Magdala, Phêrô, Gioan và nhiều người chúng ta can đảm chạy đến, mang theo dầu, đèn để khám phá và giải cứu các nạn nhân bằng một tình yêu mãnh liệt đối với Đức Giêsu. Biết rằng chạy đến ngôi mộ, chúng ta có thể bị nghi ngờ, bị bắt giữ, bị bôi nhọ, bị kết án, nhưng tình yêu đối với những Giêsu chịu đóng đinh và mai táng đòi buộc ta không được ngồi yên bất động hay tránh né hành động vì sự an toàn của chính mình. Chính khi chúng ta chạy tới với tất cả lòng can đảm và tình yêu, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu hành động bằng quyền năng cứu độ vô biên của Người được chuyển thông sang ta để làm cho các ngôi mộ ấy trống rỗng, các con người đang chết về thể xác cũng như tinh thần được trỗi dậy.

Đó là sứ điệp về ngôi mộ trống được Chúa Phục Sinh gửi gắm cho Kitô hữu chúng ta. Xin Đấng Phục Sinh và Thần Khí của Người luôn thôi thúc chúng ta biết thao thức, chạy tới và hành động để cứu giúp những ai đang bị chôn sống trong những nấm mồ cuộc đời.

2. Những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh

Những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh là những bằng chứng tích cực giúp cho người tín hữu xác tín về sự hiện diện sống động của Đấng Phục Sinh và ra đi làm chứng cho Người. Chính vì tình yêu thương vô bờ, Đức Giêsu đã hiện ra rất nhiều lần cho các tông đồ, các môn đệ để giúp chúng ta hiểu được lòng thương yêu vô biên của Người và để chúng ta được chia sẻ sự sống diệu kỳ của Thiên Chúa.

Vì thế, chúng ta sẽ dành ít phút để tìm hiểu về những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh.

2.1. Chúa Giêsu hiện ra bao nhiêu lần?

Chúng ta có thể nói rằng: Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra 14 lần. Thánh Ignatiô Loyola, sáng lập dòng Tên, đã kể lại những lần hiện ra đó trong tác phẩm “Những Bài Linh Thao” viết vào năm 1544 của ngài (x. Bản dịch của Lm. Đinh Văn Trung S.J, từ số 299 đến 312). Chúng tôi ghi lại dưới đây, trừ số 310 nói về cuộc hiện ra với ông Giuse Arimathia, vì thánh Ignatiô viết theo lòng đạo đức thời đó nhưng thiếu dữ liệu Thánh Kinh. Chúng tôi mạo muội thay thế bằng cuộc hiện ra với tất cả các tông đồ theo thánh Phaolô (x. 1Cr 15,7), như thế hợp lý hơn. Có 13 lần hiện ra đã được Thánh Kinh ghi nhận.

2.1.1. Cuộc hiện ra đầu tiên với Mẹ Maria

Dù không được Thánh Kinh ghi nhận nhưng các thánh Giáo phụ vẫn tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra đầu tiên với Mẹ Maria vì Mẹ đã đóng góp nhiều nhất cho cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Mẹ đã theo Người trên suốt chặng đường khổ giá, đã đứng vững dưới chân thập tự và vững lòng tin tưởng vào việc Chúa Cha sẽ cho Con mình trỗi dậy từ cõi chết như Thánh Kinh đã báo trước nên Mẹ xứng đáng được Chúa Giêsu hiện ra trước tiên.

2.1.2. Chúa Giêsu hiện ra với bà  Maria Magdala (x. Ga 20,1-18; Mc 16,1-11; Lc 24,1-11)

Vào sáng sớm tinh sương của ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Magdala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, bà Salomê và nhiều phụ nữ khác mang dầu đến mộ để ướp xác Đức Giêsu. Họ thấy tảng đá che cửa mộ đã được lăn sang một bên và thấy thiên thần nhắc bảo rằng: “Đức Giêsu bị đóng đinh đã trỗi dậy rồi”. Chúa Giêsu đã hiện ra với bà Maria Magdala vì bà đã ở lại cạnh mồ Chúa sau khi những người khác đi khỏi. Thánh Gioan đặc biệt ghi lại sự kiện này để nêu gương tình yêu của bà Maria Magdala đối với Đức Giêsu vì chị đã thao thức nhiều nhất, đã chạy đến mồ sớm nhất và đã nhường cho cả hai vị tông đồ Phêrô và Gioan quyền vào trong mộ xem chuyện gì đã xảy ra.

2.1.3. Chúa hiện ra với các phụ nữ (Mt 28,1-10; Mc 16,1-7; Lc 24,1-11)

Các bà Maria Magdala, bà Gioanna, bà Maria ông Giacôbê và nhiều bà khác đã đến viếng mồ Chúa và được thiên thần giao sứ mệnh báo tin cho các môn đệ Chúa Giêsu rằng Người đã sống lại. Đức Giêsu đón gặp và hiện ra với các bà, các bà tiến lại gần, ôm lấy chân Người và bái lạy Người. Chúa Giêsu nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Hãy về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”.

2.1.4. Chúa Giêsu hiện ra với ông Simon Phêrô (x. Lc 24,9-12; 33-34)

Khi nghe các phụ nữ báo tin rằng Đức Giêsu đã sống lại, thánh Phêrô đã chạy đến mồ, nhưng chỉ thấy mồ trống và các khăn vải liệm xác Chúa Giêsu. Ông rất ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra. Đang khi ông suy nghĩ về những sự việc này, Chúa Giêsu đã hiện ra với ông để giúp ông mạnh tin, bỏ hết những mặc cảm tội lỗi quá khứ và can đảm lãnh đạo cộng đồng tín hữu. Vì thế, các tông đồ đã nói với các môn đệ trở về từ Emmaus: “Chúa đã trỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với ông Simon”.

2.1.5. Chúa Giêsu hiện ra với hai môn đệ đi Emmaus (x. Lc 24,13-35)

Khi nghe tin mồ của Đức Giêsu trống rỗng, hai môn đệ sợ nhà chức trách sẽ điều tra nên vội vã đi về Emmaus. Quãng đường này dài khoảng hơn 14 cây số và đi bộ mất chừng 3-4 giờ. Chúa Giêsu hiện ra và cùng đi với họ như khách bộ hành. Người giải thích cho họ hiểu rằng Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Người. Người vào trong hàng quán theo yêu cầu của họ và họ đã nhận ra Người lúc Người bẻ bánh. Nhưng Người biến đi ngay. Hai môn đệ vội quay trở về Giêrusalem với cộng đồng tín hữu.

2.1.6. Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ ở nhà Tiệc Ly (x. Ga 20,19-23)

Vào buổi chiều ngày Chúa phục sinh, các môn đệ tụ họp trong nhà. Các cửa đều đóng kín vì các ông sợ nhà chức trách Do Thái. Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông trong khi cửa vẫn đóng kín, và nói: “Bình an cho anh em”. Nói xong Người cho các ông xem tay và cạnh sườn để các ông hiểu Người chính là Đấng bị đóng đinh trước đây. Rồi Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” để tha thứ tội lỗi và hoàn thành sứ mạng Người giao phó.

2.1.7. Chúa Giêsu hiện ra với ông Tôma (x. Ga 20,24-29)

Tông đồ Tôma vắng mặt khi Chúa Giêsu hiện đến lần thứ trước, nên ông đòi phải trông thấy các dấu đinh ở tay Chúa và vết giáo ở cạnh sườn Chúa thì mới tin Chúa sống lại. Lần này Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói riêng với Tôma theo yêu cầu của ông: “Hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Hãy đưa bàn  tay  ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Ông Tôma đã tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con”. Đức Giêsu nói với ông: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”.

2.1.8. Chúa Giêsu hiện ra với bảy môn đệ ở bờ biển Galilê (x. Ga 21,1-17)

Chúa Giêsu hiện ra với bảy môn đệ ở bờ biển Tibêria miền Galilê. Các ông đi đánh cá và vất vả suốt đêm mà không được gì. Thả lưới theo lệnh của Người đứng trên bờ, các ông đã bắt được rất nhiều cá. Phép lạ này gợi cho các ông lần đánh được nhiều cá trước đây (x. Lc 5,4-11), khi Chúa chưa chịu chết, và các ông nhận ra Người. Trên bờ, Chúa Giêsu đã chuẩn bị sẵn cho các ông bếp lửa sưởi ấm, trên để cá và có cả bánh nữa để các ông bồi dưỡng sau một đêm mệt nhọc. Chính trong bữa ăn này Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô 3 lần về tình yêu và giao phó cho ông sứ mạng chăn dắt đàn chiên.

2.1.9. Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên núi (x. Mt 28,16-20)

Các môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã chỉ trước. Chúa Giêsu hiện đến với các ông và nói: “Thầy được trao toàn quyền trên trời và dưới đất. Vậy anh em hãy đi khắp nơi để giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

2.1.10. Chúa Giêsu hiện ra với hơn năm trăm môn đệ (x. 1Cr 15,6)

Vào khoảng năm 57, thánh Phaolô viết thư thứ I gửi giáo đoàn Corintô rằng: “Chúa Giêsu hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy, phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ”. Sau khi Chúa Giêsu chết vào ngày 7 tháng 4 năm 30 và sống lại sau đó, Chúa đã hiện ra với nhiều người vì Chúa muốn cho cộng đồng môn đệ thật sự cảm nghiệm được sự hiện diện sống động của Người để làm chứng cho Người.

2.1.11. Chúa Giêsu hiện ra với thánh Giacôbê (x. 1Cr 15,7)

Thánh Phaolô còn kể lần Chúa hiện ra với riêng thánh Giacôbê. Ngài là người anh em họ với Chúa Giêsu (x. Mt 13,55; Cv 1,14; Gl 1,19), phân biệt với thánh Giacôbê là anh em ruột của thánh Gioan tông đồ. Ngài có địa vị lớn trong thời Giáo Hội sơ khai và cai quản giáo đoàn Giêrusalem. Thánh Phaolô đã đến chào thăm ngài (x. Gl 1,19-29) và trường trình cho ngài hoạt động tông đồ của mình (x. Cv 15,13-34; 21,18). Chúa Giêsu hiện ra riêng với thánh Giacôbê như để khích lệ và nâng đỡ ngài trong trách nhiệm quan trọng thời Giáo Hội sơ khai vào những lúc khó khăn nguy hiểm.

2.1.12. Chúa Giêsu hiện ra với tất cả các tông đồ (x. 1Cr 15,7)

Thánh Phaolô ghi nhận Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với “tất cả các tông đồ”. Ngài phân biệt “Nhóm Mười Hai” với các tông đồ, dù rằng Nhóm Mười Hai cũng được gọi là tông đồ (x. Mt 10,2; Mc 6,30; Lc 6,13; 22,14; Cv 1,2.26; 2,42; 4,33.35; 5,12.18…). Tông đồ theo nghĩa chữ là “người được sai đi”. Tất cả những ai được Chúa kêu gọi, chọn lựa và sai đi đều được Chúa Phục Sinh hiện ra để giúp họ cảm nghiệm Người đã trỗi dậy từ cõi chết, đang sống với mình và ban nhiều ân phúc để họ làm chứng cho Người.

2.1.13. Chúa Giêsu hiện ra với Thánh Phaolô  (x. 1Cr 15,8-10)

Thánh Phaolô đã xác nhận rằng: “Sau cùng, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã hiện ra với tôi chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non. Tôi là người hèn mọn nhất trong số các tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ vì đã ngược đãi Hội Thánh Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với thánh Phaolô trên đường ngài đến Damas để tìm bắt các tín hữu giải về Giêrusalem. Chúa đã giao phó cho ngài sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân (x. Cv 9,1-30) để ngài thật sự xác tín về những điều mình rao giảng.

2.1.14. Chúa Giêsu lên trời (x. Cv 1,1-11)

Trong khoảng thời gian 40 ngày, Đấng Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ “để chứng tỏ cho họ thấy là Người vẫn sống sau khi chịu khổ hình. Người nói chuyện với họ về nước Thiên Chúa, truyền cho họ ở lại Giêrusalem để nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần và rồi sẽ đi đến tận cùng trái đất để làm chứng cho Người”. Sau cùng, Người dẫn họ lên núi Olive và Người được cất lên trời ngay trước mắt họ (x. Mc 16,19-20; Lc 24,50-51). Trong khi họ còn nhìn lên trời, các thiên thần nhắc bảo họ rằng: Đức Giêsu sẽ ngự đến y như họ thấy Người lên trời. Các môn đệ bái lạy Người, rồi trở về Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ (x. Lc 24,53).

Đó là tóm lược 14 lần hiện ra của Chúa Phục Sinh.

2.2. Tìm hiểu đặc tính các lần Chúa hiện ra để hiểu được bản chất của đời sống mới

2.2.1. Đặc tính các lần hiện ra

Chúng ta có thể nói rằng tất cả các lần hiện ra này đều biểu lộ lòng thương xót vô bờ và tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa đối với tất cả chúng ta là con cái của Ngài, để chia sẻ cho chúng ta sự sống lạ lùng của Đấng Phục Sinh đồng thời để làm chứng nhân cho Người. Đó là động lực và mục đích của việc hiện ra.

Khi hiện ra, Chúa Giêsu cũng không phân biệt hay kỳ thị nam nữ, dù rằng vào thời đó người ta chỉ coi trọng lời chứng của nam nhân và chỉ lời chứng đó mới có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn hiện ra rất nhiều lần với các phụ nữ: từ việc hiện ra với Mẹ Maria, với bà Maria Magdala, với các phụ nữ trong nhóm các môn đệ ở nhà Tiệc Ly, ở trên núi miền Galilê, trong nhóm hơn 500 người, hay với tất cả các “tông đồ” hoặc cuối cùng trên núi Olive. Điều này đem lại niềm vui cho tất cả chúng ta vì đều được Chúa Giêsu yêu thương và giao phó sứ mạng làm chứng cho Người.

Chúa Giêsu không phân biệt chức vị cao thấp, tốt xấu: Người hiện ra với thánh Phêrô, thánh Giacôbê là các tông đồ trưởng, nhưng cũng hiện ra với những môn đệ thấp kém, vô danh vì Người yêu tất cả. Người cũng không phân biệt người thánh thiện hay kẻ tội lỗi vì hiện ra với Người Mẹ Thánh và cả với thánh Phaolô trên đường đi Damas tìm bắt các tín hữu Kitô. Vì thế, ta đừng bao giờ mang mặc cảm về sự yếu kém hay tội lỗi và nghĩ rằng chẳng bao giờ Chúa Giêsu hiện ra với mình.

2.2.2. Các vấn đề khó giải đáp trong lịch sử

Trong lịch sử nghiên cứu Thánh Kinh người ta gặp khá nhiều vấn đề cần giải đáp. Khi chưa giải đáp được thì nhiều tín hữu nại đến lòng tin, còn nhiều nhà thần học lại muốn chối bỏ sự kiện, nhất là khi họ bị ảnh hưởng bởi những ý thức hệ duy lý, duy tâm, duy thực, duy nghiệm,… Những người chống phá Kitô giáo hay tôn giáo lại dựa vào những vấn đề này để chối bỏ sự kiện sống lại của Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, nhờ những khám phá mới của khoa Thánh Kinh, khảo cổ, dân tộc, văn hoá, ngôn ngữ gần đây, nhiều vấn đề đã được giải đáp. Chúng ta có thể tóm tắt một số điểm chính sau đây:

Việc tẩm liệm và táng xác Chúa Giêsu (x. Mt 27,57-61; Mc 15,42-47; Lc 23,50-56; Ga 19,38-42): có nhiều điểm dị biệt. Các Tin Mừng Nhất Lãm không nói đến việc xức dầu thơm vào chiều ngày thứ Sáu. Lc 23,56 chỉ nói đến việc chuẩn bị dầu và thuốc thơm, các phụ nữ dự định sẽ xức dầu thơm vào sáng Chủ Nhật, còn Ga 19,39-40 lại mô tả việc xức dầu thơm chiều thứ Sáu.

Khoa Khảo cổ và Dân tộc học Do Thái ngày nay cho chúng ta biết rằng người Do Thái có thói quen tẩm liệm xác bằng dầu thơm trong vòng 3 ngày đầu sau khi chết. Như thế, tất cả các lần xức dầu thơm đều hợp lý.

Danh sách các phụ nữ đến thăm mộ vào sáng Chủ Nhật rất khác nhau: Matthêu nói đến 2 người là bà Maria Magdala và một bà Maria khác (x. Mt 28,1), Marcô nói đến 3 người là bà Maria Magdala, bà Maria mẹ ông Giacôbê và bà Salômê (x. Mc 16,1), Luca nhắc đến nhiều phụ nữ: bà Maria Magdala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, bà Gioanna và nhiều bà khác cùng đi với họ (x. Lc 24,8-10). Trong khi Gioan chỉ nói đến tên Maria Magdala (x. Ga 20,1). Từ sự khác biệt này dẫn đến việc Chúa Giêsu hiện ra với các bà cũng khác nhau. Nhiều nhà Thánh Kinh cho rằng Chúa Giêsu chỉ hiện ra một lần duy nhất với các bà và tuỳ theo mỗi Thánh Sử kể cách khác nhau và thêm bớt tên các bà theo từng truyền thống.

Tuy nhiên, ngày nay các nhà nghiên cứu Thánh Kinh cho rằng có nhiều phụ nữ đến thăm mộ Chúa như Luca đã kể, còn Chúa Giêsu hiện ra riêng với bà Maria Magdala như Tin Mừng Marcô (x. Mc 16,9) và Gioan (x. Ga 20,11-18) đã xác định rồi mới hiện ra với các phụ nữ khác (x. Mt 28,9-10).

Số thiên thần canh giữ mộ cũng khác nhau: một thiên thần theo Matthêu (x. Mt 28,2-7) và Marcô (x. Mc 16,5-7) nhưng hai thiên thần theo Luca (x. Lc 24,4-7) và Gioan (x. Ga 20,12-13). Người ta đã muốn giải đáp vấn đề khác biệt số thiên thần là do truyền thống truyền khẩu (càng kể càng tăng) hoặc do việc sao chép lại các bản văn từ các nguồn khác nhau cũng giống như việc kể tên các phụ nữ đến mồ trống.

Vấn đề được giải quyết khi người ta nghiên cứu ngôi mộ người Do Thái: vì cửa hang hẹp nên ở ngoài nhìn vào có thể chỉ thấy được một thiên thần, nhưng nếu đi hẳn vào trong mộ như Luca và Gioan kể thì người ta thấy được hai thiên thần. Như thế, các thánh sử đều trung thực kể lại những gì các nhân chứng thấy chứ không thêm bớt.

Địa điểm hiện ra cách xa nhau: Trong ngày đầu tiên sống lại, Chúa Giêsu hiện ra với nhiều người, nhất là với Simon Phêrô có thể vào buổi sáng ở Giêrusalem, với hai môn đệ trên đường đi Emmaus và với các môn đệ vào buổi chiều tối ở nhà Tiệc Ly. Người ta thắc mắc làm sao Chúa Giêsu có thể hiện ra cùng lúc với người này người kia trong khi họ lại đang ở những nơi khác nhau và cách xa nhau như thế?

Chúng ta biết Emmaus cách Giêrusalem khoảng 14 cây số (7 dặm) và phải đi bộ mất chừng 3-4 giờ mới tới nơi. Vậy nếu Chúa Giêsu hiện ra và nói chuyện trên suốt quãng đường và ghé vào quán ăn lúc xế chiều (khoảng 2-3 giờ) thì Người sẽ hiện ra với Simon lúc nào? Trước đây người ta không thể lập một biểu đồ rõ rệt về các lần hiện ra do không biết nhiều về độ dài của quãng đường, nhưng hiện nay các nhà Thánh Kinh có thể xác định Chúa Giêsu hiện ra với Simon Phêrô vào buổi sáng tương đối sớm trước khi hiện ra với các môn đệ đi đường Emmaus.

– Vấn đề càng phức tạp hơn khi nhắc tới lần Chúa hiện ra với các môn đệ vào buổi tối cùng ngày trong nhà Tiệc Ly ở Giêrusalem (x. Ga 20,19-31), vì Chúa Giêsu đã nhắc nhở các phụ nữ rằng Người sẽ gặp các môn đệ ở Galilê (x. Mt 28,7-10; Mc 16,7), nên các ông có thể đi ngay vào buổi sáng. Nhưng Galilê cách ngôi mộ chừng 160 cây số và đi bộ phải mất từ 3-4 ngày đường. Vậy làm sao Chúa Giêsu có thể hiện ra với họ ở Giêrusalem được? Có 2 giả thuyết đặt ra:

Trong giả thuyết đầu tiên: các môn đệ đã không tin lời Chúa nhắn qua các phụ nữ, qua hai môn đệ và các người khác như Marcô và Luca kể (x. Mc 16,11.13.14; Lc 24,22-24) nên đã ở lại Giêrusalem và Chúa đã hiện ra với họ ở đấy. Giả thuyết này được nhiều nhà Thánh Kinh chọn lựa. Tuy nhiên, giả thuyết thứ hai cho rằng các môn đệ có thể tin lời các phụ nữ và đi ngay về Galilê thì Chúa Giêsu vẫn có thể hiện ra với họ. Người ta có thể giải đáp những thắc mắc này khi hiểu về bản chất cuộc sống lại kỳ diệu của Chúa Giêsu.

– Việc ghi tên những nơi chốn hiện ra khác nhau ở Giêrusalem, ở biển hồ Tibêria, ở trên một ngọn núi miền Galilê hay trên núi Olive miền Giuđê trước đây được giải thích bằng ý hướng thần học riêng của mỗi thánh Sử hoặc do những nguồn sao chép khác nhau của các truyền thống khiến người ta nghi ngờ tính chân thật của sự kiện.

Ngày nay, chúng ta tin rằng các thánh Sử rất trung thực với sự kiện lịch sử khi chọn lựa địa điểm những lần Chúa hiện ra, dù rằng các ngài chọn lựa theo ý hướng thần học riêng của mình.

2.2.3. Bản chất cuộc sống lại của Chúa Giêsu

Thật ra, những thắc mắc trên đây là do con người quá tin vào những kiểu lý luận và đòi hỏi bằng chứng của những người theo chủ nghĩa duy lý, duy khoa học thực nghiệm cũng như chưa hiểu được bản chất cuộc sống lại của Đức Giêsu, cũng như chưa cảm nghiệm được bản chất sự sống kỳ diệu của Chúa Phục Sinh.

Cuộc sống lại của Chúa Giêsu không phải giống như cuộc hồi sinh của con gái ông Giairô (x. Mc 5,22-43), con trai bà goá thành Naim (x. Lc 7,11-17), Ladarô (x. Ga 11,1-41), Euticô (x. Cv 20,9-12), Tabitha (x. Cv 9,36-41). Chúa Giêsu không phải chỉ trở lại cuộc sống bình thường trong không gian và thời gian với các điều kiện vật chất như mọi người mà Người sống một cách thức mới trong chiều kích của Thiên Chúa hằng sống. Đó là niềm vui và hy vọng cho chúng ta. Xin cho chúng ta luôn biết hít thở Thần Khí của Chúa để cảm nghiệm được sự sống mới mẻ này.

Chúa Giêsu sống lại là Người giới thiệu cho chúng ta một sự sống mới, một sự hiện hữu mới để chúng ta thông phần vào sự sống kỳ diệu của Thiên Chúa, một Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và hiện diện trong mọi thời. Do đó, dù cửa nhà các môn đệ đóng kín, Chúa Giêsu vẫn hiện ra đứng giữa mọi người. Người ăn uống với họ để họ thấy vật chất được thâu nhận và biến đổi trong đời sống mới này. Người cho các ông xem tay và cạnh sườn bị đâm thủng của Người và yêu cầu Tôma kiểm chứng để thấy Người chính là con người trước đây đã bị đóng đinh, bị chết nay sống lại.

Đó cũng là sự sống mới mẻ khởi đầu từ một cuộc sáng tạo mới: Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ và ban Thánh Thần của Người cho họ. Trong cuộc tạo dựng đầu tiên, Chúa dựng nên con người từ bùn đất, khi Chúa thổi hơi vào thì trở thành con người sống động. Bây giờ, Ngôi Lời Thiên Chúa là Chúa Giêsu sống lại cũng thổi hơi trên các môn đệ để tạo dựng nên những con người mới, những con người được chia sẻ sự sống vĩnh hằng, kỳ diệu của Đấng Phục Sinh nhờ Thần Khí của Người. Thánh Phaolô sẽ khai triển nhiều về đề tài này trong các thư của ngài khi xác tín Đức Giêsu là một Ađam mới ngay trong cái chết của Người khi “Người gục đầu xuống và trao ban Thần Khí” (Ga 19,30).

Chúng ta có nhiều thí dụ trong Thánh Kinh cũng như trong đời sống của các thánh nhân về những đặc tính của đời sống mới. Chẳng hạn trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Philipphê đang giảng dạy ở miền Samari, Thánh Thần bốc ngài đi gặp viên hoạn quan đang đi trên đường từ Giêrusalem về Gaza để nói cho ông về Chúa Giêsu, rồi sau khi rửa tội cho ông, Thánh Thần lại cất ông đi ngay trước mắt viên quan ấy và đặt ông xuống miền Asđôt, cách xa hàng trăm cây số (x. Cv 8,4-40). Hoặc thánh Martinô Pores sống ở Nam Mỹ nhưng được Chúa cho vượt Đại Tây Dương trong nháy mắt, đưa vào ngục tù để chữa cho một tù nhân ở châu Âu. Khi ngài dẫn đoàn học sinh đi chơi, thầy trò vui vẻ đến quên giờ về đọc kinh chiều trong khi đường còn rất xa, thánh nhân xin tất cả nhắm mắt lại cầu nguyện, mở mắt ra đã thấy mình ở trước cổng tu viện. Những thí dụ đó cho ta hiểu về sự sống mới mà Đấng Phục Sinh có thể chia sẻ cho các môn đệ của Người.

Khi gắn bó với Đấng Phục Sinh, Thiên Chúa giàu lòng thương xót sẽ cho chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và quyền năng kỳ diệu của Người để chúng ta hiểu rằng Người đang hiện diện sống động bên ta, chia sẻ sự sống kỳ diệu cho ta để ta không còn lệ thuộc vào vật chất, vào không gian, thời gian và định luật của thể xác, để tâm hồn chúng ta mở rộng ra cho mọi người, mọi vật quanh mình.

2.2.4. Đường Ánh Sáng

Một việc đạo đức bình dân gắn liền với các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh đã được một số dân tộc đón nhận và thực hành gọi là Đường Ánh Sáng. Đường Ánh Sáng cũng gồm 14 chặng kể lại những lần Chúa hiện ra và những bài học đạo đức kèm theo đã có từ rất lâu trong lịch sử Giáo Hội. Chúng ta ghi nhận trong sách Những Bài Linh Thao của thánh Ignatiô viết vào năm 1544 đã kể lại gần đủ các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh.

Từ mấy thế kỷ qua, tín hữu Công giáo Việt Nam hầu như chỉ biết đến Đàng Thánh Giá mà chưa biết đến Đường Ánh Sáng nên đời sống có thể hướng nhiều về những đau khổ, thử thách, buồn sầu hơn là một đời sống quân bình với niềm vui, hy vọng, bình an và tràn đầy sự sống của Đấng Phục Sinh. Một số nhà đạo đức đã phải thêm cuộc sống lại của Đức Kitô để thành chặng thứ 15 của Đàng Thánh Giá. Nhiều nghệ sĩ Việt Nam cũng đã vẽ hoặc làm những phù điêu, tượng ảnh nhưng chưa được chính xác vì không hiểu rõ phần mộ và cách an táng của người Do Thái, dù đôi khi muốn thể hiện theo tính cách Việt Nam trong việc hội nhập văn hoá.

Một số dân tộc đã có Đường Ánh Sáng nhưng chưa áp dụng được các nghiên cứu Thánh Kinh gần đây nên chỉ kể được 7-8 lần hiện ra của Đấng Phục Sinh, vì thế họ phải chia nhỏ những lần hiện ra để tạo thành đủ 14 nơi tương ứng với 14 chặng Đàng Thánh Giá. Thí dụ: các tín hữu Philippines có 14 chặng Đường Ánh Sáng như sau: 1. Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết; 2. Phêrô và Gioan bên mộ Chúa; 3. Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với Maria Magdala; 4. Đức Kitô Phục Sinh với hai môn đệ đi Emmaus; 5. Đức Kitô Phục Sinh tỏ mình khi bẻ bánh; 6. Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với các môn đệ; 7. Đức Kitô Phục Sinh ban quyền tha tội cho các môn đệ; 8. Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với Tôma; 9. Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với các môn đệ tại biển hồ Tiberia; 10. Đức Kitô Phục Sinh trao quyền cai quản Giáo Hội cho Phêrô; 11. Đức Kitô Phục Sinh sai các môn đệ rao giảng Tin Mừng cho thế giới; 12. Đức Kitô Phục Sinh lên trời; 13. Các môn đệ chuẩn bị đón nhận Chúa Thánh Thần; 14. Đức Kitô Phục Sinh sai Thánh Thần xuống (x. Sách Kinh Bỏ Túi 2005 của Văn phòng Truyền thông Xã hội thuộc Liên Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC), tr.36-37).

Với những nghiên cứu gần nhất, chúng tôi xin giới thiệu Đường Ánh Sáng với 14 nơi Chúa Giêsu hiện ra tương ứng với 14 chặng Đàng Thánh Giá cho người Việt Nam. Chúng tôi hy vọng rằng các nhà đạo đức sẽ sáng tác những văn bản, lời kinh phù hợp với tín hữu Việt Nam và các văn nghệ sĩ, hoạ sĩ, điêu khắc cũng sẽ có những sáng tác mới mẻ để trong các thánh đường Việt Nam, bên cạnh những chặng đàng đau khổ suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu thì cũng có những nơi an vui, loan báo sự sống lại của Người.

Lời kết

Khi suy nghĩ về lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa và sự sống kỳ diệu của Đấng Phục Sinh chia sẻ, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta, ít là một lần trong đời, cảm nghiệm được sự hiện diện sống động của Chúa chúng ta tin chắc rằng Chúa Giêsu sẽ hiện ra với chúng ta để ta làm chứng cho Người, sử dụng quyền năng của Người để cứu giúp muôn loài theo sứ mạng Chúa trao.

 

Bài 7

Thở được linh khí của Trời

Lời mở

Trong đời sống thường ngày, chúng ta thường quan tâm đến ăn, ít chú ý đến uống và hầu như chẳng để ý đến thở. Nhiều người thở rất yếu nên sức khoẻ kém cỏi, mang nhiều bệnh tật. Trong kinh nghiệm tiếp xúc với hơn 10.000 bệnh nhân, tôi thấy 95% thở không đủ khi đo hơi thở cho họ. Nếu hiểu được tầm quan trọng của khí trong đời sống tự nhiên cũng như siêu nhiên, ta mới sống khoẻ mạnh, tài giỏi, xinh đẹp vì thở dồi dào được khí sạch của đất và trở thành kỳ diệu, phi thường, thần linh vì thở được khí thiêng của Trời.

Cuộc đời hào hùng của Nguyễn Công Trứ[[28]] như mời gọi ta thở được linh khí của trời đất qua bài thơ Kẻ Sĩ của ông:

Khí hạo nhiên chí đại chí cương

So chính khí đã đầy trong trời đất”.

 

1. Tầm quan trọng của khí thở tự nhiên

Nhiều người chưa hiểu khí cần thiết và quan trọng như thế nào cho sự sống, nên chỉ quan tâm đến việc ăn uống và bỏ qua việc thở. Một ngày không ăn là họ cảm thấy đói cồn cào, tay chân rã rời, như mất hết sức sống. Nhưng thật ra, chúng ta biết rằng lương thực là loại nhu cầu thấp nhất so với nước uống và khí thở. Người ta có thể nhịn ăn tối đa khoảng 30-40 ngày, nhịn uống khoảng 3-4 ngày và nhịn thở tối đa khoảng 4 phút nhờ 1 lít không khí luôn được dự trữ trong buồng phổi. Mỗi ngày người lớn trung bình cần 1,5kg lương thực, 3-4 lít nước và tối thiểu 10.000 lít không khí.

 

Để có thể sống được, 75 ngàn tỉ tế bào trong cơ thể con người cần được liên tục cung cấp oxy từ khí quyển bên ngoài vào trong cơ thể và thải trừ khí carbonic. Nhờ có khí oxy, tế bào sẽ chuyển hoá hay đốt các chất dinh dưỡng mà máu đưa tới thành năng lượng và khí carbonic sinh ra trong quá trình này sẽ được thải ra ngoài[[29]]. Dòng máu đen đầy khí carbonic không còn ích lợi cho sự sống đó phải được quả tim chuyển sang buồng phổi để đỏ trở lại nhờ nhận được oxy.

Như thế, nếu con người tăng cường hệ hô hấp để có nhiều oxy trong máu, người ta sẽ tăng cường được các chức năng của hệ thần kinh: ý thức dồi dào hơn, cảm xúc mãnh liệt hơn, ý chí mạnh mẽ hơn, học hành làm việc hiệu quả hơn. Đây là lý do chúng ta cần tập thở cho đúng, cho tốt để tăng cường chất lượng sống tự nhiên.

 

2. Tầm quan trọng của khí thở siêu nhiên

Khi hiểu được tầm quan trọng của khí thở đối với sự sống tự nhiên, ta có thể suy diễn và hiểu được phần nào tầm quan trọng của khí siêu nhiên đối với đời sống tinh thần của từng người, cũng như của Giáo Hội là thân thể nhiệm mầu của Đức Giêsu Kitô. Nhất là chúng ta nhận ra và cảm nghiệm được vai trò thần hoá của Chúa Thánh Thần vì Ngài chính là Thần Khí, là khí thiêng của Trời, được ban cho ta thở và biến đổi ta thành con cái Thiên Chúa như Chúa Giêsu.

 

Người Việt chúng ta đã từng biết đến “linh khí” là khí thiêng của trời đất, núi sông, biết đến “dũng khí”, “hào khí”, “chính khí” của những con người có chí khí mạnh mẽ, dám đương đầu với những khó khăn, nguy hiểm. “Khí hạo nhiên” được Nguyễn Công Trứ nhắc đến là thứ khí phách, năng lực tinh thần, phẩm cách cao quý nhất, không gì so sánh được của con người. Những hiểu biết này giúp ta dễ hiểu hơn về Chúa Thánh Thần được gọi là Thần Khí của Kitô giáo.

Từ “Thần Khí” xuất phát từ chữ Ruah trong tiếng Do Thái, và có nghĩa đầu tiên là hơi thở, không khí, gió[[30]]. Chúa Thánh Thần là hơi thở của Thiên Chúa trong công trình tạo dựng vũ trụ và con người (x. St 1,2; 2,7; Tv 33,6; 104,30; Gv 3,20-21; Xh 37,10). Ngài là nguồn gốc của sự hiện hữu và sự sống của mọi loài thụ tạo[[31]]. Ngài là hồng ân cao quý nhất mà Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho các môn đệ khi thổi hơi trên họ để họ có quyền tha tội như Thiên Chúa: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần…”. Chúa Thánh Thần chính là “làn gió mạnh mẽ ùa vào đầy nhà nơi các môn đệ đang tụ họp” (x. Cv 2,1-11) để biến đổi họ thành con người mới đầy ân sủng và quyền năng. Cuối cùng, Ngài chính là Ngôi Ba Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Con.

Khi thở hít được linh khí ấy, ta mới hoà nhập thành một với Chúa Giêsu, trở thành chi thể sống động trong thân thể mầu nhiệm của Người. Thánh Phaolô đã nhắc nhở rằng: “Tất cả chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể, tất cả chúng ta được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (x. 2Cr 12,37.12.13)[[32]]. Có thở được Thần Khí ấy ta mới phát huy sự sống kỳ diệu, tràn đầy sự thật, niềm vui, bình an của Thiên Chúa để tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu Kitô. Đó là “sứ vụ phối hợp của Chúa Con và Chúa Chúa Thánh Thần”[[33]], đồng thời cũng là sứ vụ của Hội Thánh “như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em[[34]].

Chúng ta phải thú nhận rằng: người tín hữu Công giáo chưa ý thức tầm quan trọng của Chúa Thánh Thần và chưa thở được Thần Khí. Trong một vài thế kỷ đầu, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ và môn đệ khiến họ hăng say rao giảng Tin Mừng và phát huy các ân sủng kỳ diệu của Ngài. Nhưng sau đó, Giáo hội Công giáo rơi vào tình trạng quên lãng sự hiện diện sống động của Ngài và đánh mất bí quyết thở Thần Khí do các tông đồ truyền lại. Họ rất thụ động trong việc thở khí thiêng. Thần Khí mà họ nhận được khi chịu bí tích Rửa Tội hay Thêm Sức chỉ lưu lại rất ít giúp họ sống yếu ớt, thoi thóp chứ không phải dồi dào sung mãn với đủ loại ơn đoàn sủng, hiện sủng, đặc sủng của Thánh Thần như các ơn nói tiên tri, phục vụ, chữa bệnh, trừ tà, thông thạo các ngôn ngữ, khoa học… Chúng ta cần phải tập thở Thần Khí và làm sống lại sự hiện diện lạ lùng của Chúa Thánh Thần, thì mới giúp cho con người thời nay cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa Giêsu và mới tin theo Người.

3. Bài học thở từ thực tế đời sống

Để phát triển con người toàn diện, chúng ta phải tập thở cả khí tự nhiên lẫn siêu nhiên cách dài, nhẹ, êm, sâu và tạo dựng một bầu khí trong sạch cho mọi người, mọi vật quanh ta.

3.1. Bầu khí trong lành

Bầu khí quyển hiện nay đang bị ô nhiễm và tàn phá nặng nề bởi sự vô tâm và lòng tham của con người. Bầu khí quyển tinh thần còn bị ô nhiễm trầm trọng hơn vì các phương tiện truyền thông đại chúng như sách báo, phim ảnh, đài phát thanh, truyền hình, internet và các mạng xã hội đang tự do phổ biến đủ loại quan điểm sai lạc, hình ảnh đồi truỵ, ý thức hệ vô thần, bạo lực, gây chia rẽ, thù hận, nhân danh tự do tuyệt đối của con người. Vì thế, chúng ta phải bảo vệ bộ thần kinh trung ương không bị nhiễm độc vì những bản nhạc, tập truyện, cuốn phim, bài viết cổ vũ cho những điều sai lạc, ác đức, đồi truỵ để dành thời giờ cho những hành động tích cực, cổ vũ tình yêu thương liên đới, hiệp thông với người khác.

3.2. Tập thở tự nhiên

Với một hơi thở, không khí được kéo vào trong các phế nang của phổi qua đường hô hấp. Nó di chuyển từ mũi hoặc miệng, qua yết hầu, qua thanh quản và vào khí quản. Trong suốt hành trình dài này, không khí được làm ấm lên bằng thân nhiệt và lọc bỏ các vật thể nếu có. Chúng ta nên hít khí bằng mũi và thở ra bằng miệng. Nhiều người tập Yoga được yêu cầu tập thở ra bằng mũi. Khi thở ra, khí carbonic đang ở nhiệt độ cơ thể, cũng không có hạt bụi, nên không cần qua khoang mũi. Thở ra bằng miệng sẽ nhanh hơn và dễ dàng hơn. 

Nhiều người tập khí công được yêu cầu thở theo 4 thì: nạp khí (hít khí vào), vận khí (nín thở dẫn hơi vào đan điền), xả khí (thở ra hết và thót bụng lại), bế khí (ngưng thở khi bụng trống rỗng). Nhiều cách thở của các môn phái như Hartha Yoga, Thiền Tông, Zen, thở theo phương pháp Dưỡng sinh, hoặc các phái võ thuật như Aikido, Vovinam, Thiếu Lâm… cũng được tập luyện theo 3 thì hay 4 thì trên đây, kèm thêm cách ngồi, cách đứng khác nhau[[35]].

Thật ra, người tín hữu Kitô giáo có thể tự do tập luyện theo các phương pháp ấy, miễn là không bị ảnh hưởng bởi các lý thuyết sai lạc của tôn giáo đi kèm theo cách thở. Chúng tôi cổ vũ một phương pháp thở 2 thì theo cấu trúc tự nhiên của cơ thể, vì nghĩ rằng càng tôn trọng cấu trúc tự nhiên, ta càng có sức khoẻ ổn định và an lành.

Một điểm cần lưu ý, là khi ngủ đêm chúng ta cần thở nhiều vì số lần thở ban đêm khi ngủ thường thấp hơn ban ngày khoảng ¼, nghĩa là thở khoảng 12 lần/ phút. Ta nên nằm thẳng, đừng ôm gối, hai tay xuôi theo thân người để thở khí dễ dàng, giấc ngủ sẽ sâu hơn và thần kinh thư giãn tốt hơn.

Chúng ta có thể tập những động tác thở để tăng khối lượng khí trong phổi bằng những bài tập thể dục vẫn thường tập trong các trường học trước đây.

3.3. Tập thở siêu nhiên

Từ nhiều ngàn năm qua, các triết gia Hy Lạp, Latinh đã biết đến khí như một thành phần cơ bản cấu tạo nên vũ trụ và muốn thở được linh khí của trời đất. Các nhà đạo học Đông Phương cũng mong ước được như vậy. Nhiều đạo sĩ, thiền sư ngồi thiền và vận khí để mong được giác ngộ như Đức Phật Thích Ca. Nhiều võ sĩ các môn phái tập khí công để mong đả thông kinh mạch, khai mở được “sinh tử huyền quan” và có sức mạnh vô biên. Tất cả đều là những mơ ước được thần hoá của con người.

Người Kitô hữu chúng ta được mời gọi gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu Kitô để biến đổi thành “con người mới” (Ep 2,5) “trong một Thần Khí duy nhất” (Ep 2,18) “với muôn vàn ơn phúc của Chúa Thánh Thần” (Ep 1,3). Khi thở được Thần Khí của Đức Giêsu, dòng máu đen tội lỗi của ta sẽ được biến đổi thành dòng máu đỏ tinh tuyền của Người. Lúc đó là ta được “thần hoá”, trở thành người con thật sự của Chúa Cha và có thể phát huy mọi ân sủng kỳ diệu của Chúa Thánh Thần để “hoàn thành kế hoạch yêu thương mà Chúa Cha đã định từ trước muôn đời trong Đức Kitô” (x. Ep 1,9).

 Lịch sử cứu độ của Giáo hội Công giáo chứng thực giấc mơ thần hoá này đã thể hiện trong đời sống của nhiều thánh nhân và ngay trong đời thường của các tín hữu. Họ không cần phải đi tìm các bí quyết luyện khí của những vị cao tăng trong rặng núi Himalaya được kể trong những câu chuyện phóng tác như Hành trình về Phương ĐôngĐường mây qua Xứ tuyết, hay trong tập Bàn tay Ánh sáng của Ts. Barbara Ann Brennan][36] mà những người học nhân điện say mê tập luyện.

Thánh Phaolô nói rất nhiều về Thần Khí trong các thư của ngài. Ngài mời gọi chúng ta “hãy sống theo Thần Khí” (Gl 5,16) “hãy để cho Thần Khí hướng dẫn” (Gl 5,18), “hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25) thì chúng ta sẽ hưởng được “hoa quả của Thần Khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22). Nhất là khi hiểu được Chúa Thánh Thần là tình yêu nối kết Chúa Cha, Chúa Con và chúng ta lại với nhau, chúng ta sẽ cố gắng thực hiện mọi việc vì tình yêu. Mỗi lần hành động như thế là một lần ta thở được Thần Khí, được linh khí của Trời.

Lời kết

Bài học “Thở được linh khí của Trời” này, đối với chúng ta, có thể là một trong những kinh nghiệm sống quan trọng nhất. Xin bạn thử tập và bạn sẽ thấy Chúa Thánh Thần kỳ diệu vô cùng.

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Dung tích thở của bạn đo được bao nhiêu? Bạn tập thở như thế nào để tăng cường khí thở tự nhiên của bạn?

2.Bạn thở Thần Khí theo phương pháp nào? Hiệu quả ra sao?

 

                                            Bài 8

Giải nghĩa được tình yêu

 

Lời mở

Yêu là một trong các hành động thường ngày của con người, liên hệ mật thiết với sự sống: sống để yêu và yêu để sống. Tuy  nhiên, thực tế của đời sống hiện nay lại là một thảm trạng về tình yêu. Chỉ tính riêng ở Việt Nam đã có hàng triệu cuộc tình tan vỡ và hàng triệu bào thai bị phá bỏ mỗi năm, chưa kể hàng ngàn người bị giết hại, lừa bịp, tự tử và hàng chục triệu bệnh nhân tâm thần, chỉ vì con người không giải nghĩa được tình yêu và không biết yêu thương.

Vì thế, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu tình yêu là gì và phải yêu như thế nào mới đúng đắn và tốt đẹp.

1. Những người không giải nghĩa được tình yêu

Dù yêu là một từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong ngày: yêu cha mẹ, yêu vợ con, yêu người tình, yêu bè bạn, yêu công việc, yêu khoa học, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu đất nước… nhưng thật khó định nghĩa tình yêu là gì nên cũng không thể xác định yêu như thế nào mới tốt đẹp. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết bài Vì sao trong tập “Thơ Thơ”, sáng tác năm 1938, rằng:

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,

Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu“.[37]

Ông cho rằng tình yêu là cái gì đó mờ ảo, mông lung, bàng bạc trong thiên nhiên cũng như trong lòng người, nhưng không thể giải thích và xác định được.

Điều này đã được minh chứng. Đó là trong hơn 4.000 trang sách khổ lớn của bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam do hàng trăm giáo sư tiến sĩ của Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn và xuất bản năm 2005, người ta không tìm thấy mục từ “tình yêu”, mà chỉ có “tình bạn”, “tình cảm”, “tình dục”. Các người theo ý thức hệ duy vật không tin có tình yêu và cho rằng tình yêu là sản phẩm tưởng tượng của người theo chủ nghĩa duy tâm, vì các máy móc tiên tiến nhất của khoa học hiện đại cũng không tìm thấy một dấu vết nào của tình yêu trong trái tim hay bộ não của con người. Điều nực cười là trong khi các thầy cô dạy các học sinh lớp mẫu giáo, tiểu học phải “yêu tổ quốc, yêu đồng bào” trong 5 điều Bác Hồ dạy, thì học sinh và sinh viên lớp lớn lại được dạy rằng tình yêu chỉ là sản phẩm bịa đặt của thuyết duy tâm sai lạc.

Một số người khác tin rằng có tình yêu thật sự nhưng không biết tình yêu bắt nguồn từ đâu. Họ đồng hoá tình yêu với tình dục. Họ lầm tưởng tình yêu chỉ thôi thúc họ chiều theo những bản năng thấp kém thuộc về sinh lý con người nên họ đồng ý với thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều, rằng: “Tu là cỗi phúc, tình là dây oan”.[38]

Còn những người khác, biết rõ cội nguồn của tình yêu là Chúa Trời Đất, như thi sĩ Công giáo Hàn Mặc Tử đã giải thích cho Xuân Diệu và những ai không tin, qua bài Đà Lạt trăng mờ, rằng:

Ai hãy lặng thinh chớ nói nhiều

Để nghe dưới đáy nước hồ reo

Để nghe tơ liễu run trong gió

Và để nghe Trời giải nghĩa yêu.[39]

Kitô giáo nói rất rõ về tình yêu khác hẳn với tất cả các tôn giáo khác. Nhưng ít người tín hữu Kitô hiểu được ý nghĩa phong phú tuyệt vời và diễn tả được nó trong đời sống, nên họ vẫn chưa thuyết phục người khác theo đạo của mình. Cho đến nay, mới chỉ có 7% dân Việt Nam theo đạo Công giáo và khoảng 2% theo đạo Tin Lành. Số tín hữu Công giáo trên thế giới chiếm khoảng 20% dân số toàn cầu.

2. Đi tìm một định nghĩa tình yêu

Các văn sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, các nhà triết học, xã hội học, thần học… đều nói rất nhiều đến tình yêu, nhưng hầu hết đều hiểu đó là tình cảm yêu đương nam nữ và phân biệt tình yêu này với tình cha, tình mẹ, tình huynh đệ, tình quê hương. Thật ra, nếu trái tim là biểu tượng của tình yêu, thì mỗi người chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương tất cả các đối tượng đó! Vậy tình yêu thật sự là gì?

Mở cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, do Hoàng Phê chủ biên, chúng ta tìm được câu định nghĩa sau đây: “Tình yêu là tình cảm yêu mến, làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với người, với vật“, nghĩa thứ hai mới là “Tình cảm yêu đương giữa nam và nữ[40]. Còn “yêu” là “có tình cảm dễ chịu khi tiếp xúc với một đối tượng nào đó, muốn gần gũi và thường sẵn sàng vì đối tượng đó mà hết lòng“. Nghĩa thứ hai của “yêu” mới là “có tình cảm thắm thiết dành riêng cho một người khác giới nào đó, muốn sống chung và cùng nhau gắn bó cuộc đời. Yêu đồng nghĩa với thương “(x. sđd, tr.1492).

Các tôn giáo ít khi nói đến tình yêu, vì thường hiểu là tình cảm yêu đương nam nữ của con người bị bản năng sinh lý chi phối, nên thường bỏ qua và còn nhắc nhở các tín đồ, tu sĩ xa tránh hay kiêng cữ cho xứng đáng với thần linh.

Riêng ở Việt Nam, người tín hữu Công giáo có nguy cơ bị lầm lạc khi họ lẫn lộn “tình yêu” với “tình thương”, bắt nguồn từ việc phiên dịch thiếu chính xác các bản văn Thánh Kinh, các lời kinh phụng vụ và các văn bản chính thức của Giáo Hội.

Do ảnh hưởng của xã hội và cả những người có tôn giáo đã đồng hoá tình yêu là tình dục, nên các dịch giả Công giáo đã dùng từ “tình thương” để dịch từ Agape của tiếng Hy Lạp, CaritasAmor của tiếng La Tinh hay Love của tiếng Anh. Tuy nhiên, tình thương khác với tình yêu. Tình thương, theo gốc tiếng La Tinh, là Misericordia và tiếng Anh là Mercy, không thể dùng lẫn lộn với từ “tình yêu”, dù rằng “tình thương” bắt nguồn từ tình yêu. “Tình thương” được Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “tình cảm thương yêu, chia sẻ và đùm bọc một cách thắm thiết[41] và nó mang một ý nghĩa thương xót: “cảm thấy đau đớn, xót xa trong lòng trước một cảnh ngộ không may nào đó[42].

Trong khoảng 20 năm gần đây, Giáo hội Công giáo cổ vũ phong trào “Lòng Chúa Thương Xót” nên người ta càng thích dùng từ tình thương thay cho tình yêu. Tuy nhiên, khi đồng hoá tình yêu là tình thương, người ta đã làm nghèo nội dung của tình yêu, vì con người có thể chia sẻ, quan tâm săn sóc người khác mà vẫn không yêu họ, như người vợ săn sóc người chồng đã phản bội mình. Đó là kiểu yêu nhau vì nghĩa chứ không phải vì tình. Hơn nữa, dùng từ như vậy có thể hiểu sai tình yêu theo nghĩa thần học, vì khi nói “tôi thương Thiên Chúa” thì ta không có ý nói: Thiên Chúa đang gặp một cảnh ngộ bất hạnh nào đó đáng cho ta động lòng thương xót đối với Ngài. Thiên Chúa có đầy đủ mọi sự, hoàn hảo và không cần đến lòng thương xót của ta![43]

Chỉ tiếc rằng Từ điển Công giáo do Hội đồng Giám mục Việt Nam xuất bản năm 2016 với 2022 mục từ lại không có mục từ “tình yêu” dù có từ “thương xót”.

3. Giải nghĩa được tình yêu

Tôn giáo nhắc nhiều đến tình yêu là Do Thái giáo. Người Do Thái hiểu biết và cảm nhận được tình yêu (2 Sbn 2,11) của Thiên Chúa Giavê mà họ thờ kính (x. Xh 20,6) nên họ cũng phải yêu mến đồng bào (x. Lv 19,18) và cả ngoại kiều (x. Đnl 10,19) bằng tình yêu chân thành như đối với Giavê (x. Đnl 6,5; 11,1). Các tác giả Thánh Kinh mô tả tình yêu vợ chồng  (x. 1V 11,1), tình bạn (x. 1Sm 18,1.3; 20,17), tình yêu đối với lề luật Chúa (x. Tv 119) với đền thờ Giêrusalem (x. Tv 122)… bằng một từ duy nhất: yêu để dẫn mọi người đến cội nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa.

Tuy nhiên, chỉ Kitô giáo mới là tôn giáo duy nhất xác định được tình yêu là gì, phải yêu thương cụ thể như thế nào, tình yêu bắt nguồn từ đâu và dẫn con người đến đâu. Người Công giáo đã dựa trên giáo huấn về tình yêu này để xây dựng nền văn hoá đặc biệt của mình trong suốt 20 thế kỷ qua, kể từ lúc Đức Giêsu Kitô rao giảng Tin Mừng về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Nền văn hoá này đã tác động mạnh mẽ đến các dân tộc ở các nước Âu Mỹ trong nhiều thế kỷ qua, cho đến đầu thế kỷ 21, khi nhiều người đặt tất cả niềm tin vào khoa học kỹ thuật và ít quan tâm đến những giá trị tinh thần, trong đó có tình yêu.

Tình yêu không bắt nguồn từ con người nhưng “bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1Ga   4,7) “vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8.16). Tình yêu vừa là bản thể vừa là bản chất của Thiên Chúa nên lúc nào Ngài cũng muốn chia sẻ tình cảm thắm thiết của mình cho muôn loài. Ngài đưa bản chất tình yêu vào trong muôn loài để chúng phản ánh tình yêu của Ngài khi yêu thương nhau.

Vì thế chúng ta hiểu được cấu trúc của vật chất khi những nguyên tử mang điện tích âm gắn bó với những chất mang điện tích dương để tạo ra chất mới là đứa con của mình, như Hydro gắn bó với Oxy sinh ra nước. Từ đó ta hiểu tại sao nắng nhạt, gió mây vuốt ve trên con người như Xuân Diệu, tại sao nước reo và tơ liễu như sợi tơ hồng nhắc nhở Hàn Mạc Tử về tình yêu muôn thuở giữa con người và Thiên Chúa, tại sao ngọn rau, tôm cá hy sinh sự sống cho ta trong bữa ăn hằng ngày.

Các loài có tinh thần như loài người và thiên thần vì được dựng nên giống với Thiên Chúa nên họ có tự do để yêu thương và cũng có tự do để từ chối Thiên Chúa tình yêu. Thật sự họ đã chối từ. Khi tự ý cắt đứt nguồn yêu thương nối kết mình với Thiên Chúa Tạo Hoá, họ đánh mất luôn cả nguồn sống vĩnh hằng và nguồn chân thiện mỹ. Con người vì thế phải đau khổ, xấu xí, gian ác và chết chóc.

Tuy nhiên, Thiên Chúa là tình yêu nên Ngài vẫn tiếp tục yêu thương vì Ngài không thể chối bỏ chính mình. Ngài ý thức về trách nhiệm với mọi loài thụ tạo của mình nên đã sai Con Một Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa xuống thế gian, trở thành người là Đức Giêsu Kitô để cứu độ tất cả. Đức Giêsu vì thế chính là tình yêu cụ thể của Thiên Chúa. Ngài dạy cho ta biết Thiên Chúa yêu thương muôn loài như thế nào và ta phải yêu thương như thế nào. Người nói: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34; 15,12).

Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã giải thích rất rõ về tình yêu trong thông điệp “Thiên Chúa là Tình yêu” (Deus est Caritas), năm 2005;  Công Đồng Vaticanô II đã nhắc đến tình yêu trong tất cả các văn kiện của mình hàng trăm lần; sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo trưng dẫn 101 lần; sách Tóm lược Học Thuyết Xã hội Công giáo trình bày 129 lần và sách Docat nhắc đến 72 lần trong 328 câu. Những số thống kê này cho ta hiểu ý nghĩa phong phú và tầm quan trọng của tình yêu trong đời sống tín hữu Kitô như thế nào để chúng ta giải được nghĩa tình yêu cho chính mình.

 

Lời kết

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Con người không thể sống thiếu tình yêu. Nếu tình yêu không được tỏ bày cho con người, nếu con người không tìm gặp tình yêu, nếu con người không thể cảm nghiệm và tiếp nhận tình yêu, nếu con người không tham dự mật thiết vào tình yêu, thì con người vẫn là một hữu thể không hiểu nổi chính mình[44].

 

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn nghĩ tình yêu là gì?

2. Tình yêu chân thật có những đặc tính nào?

 

Bài 9

Nền văn hoá toàn diện và liên đới

Lời mở

Kể từ Công đồng Vaticanô II (1962-1965) cho đến nay, từ “văn hoá” được nhắc đến nhiều lần trong các văn kiện chính thức và quan trọng của Giáo hội Công giáo[45]  vì văn hoá bao gồm hầu như mọi sinh hoạt thường ngày của con người. Vì thế chúng ta cần tìm hiểu xem văn hoá là gì, Giáo hội muốn chúng ta xây dựng loại văn hoá nào và xây dựng nó bằng cách nào?

1. Văn hoá là gì?

Từ văn hoá có nhiều nghĩa. Theo nghĩa chữ, văn là vẻ đẹp do mầu sắc tạo ra, là hình thức đẹp trong nghi lễ, nghệ thuật, ngôn ngữ, trong cách cai trị, cư xử…; hoá có nghĩa là dạy dỗ, làm cho hình thành. Trong Từ điển Tiếng Việt, ta thấy có 5 ý nghĩa khác nhau, nhưng ý nghĩa rộng nhất: “Văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Ví dụ: kho tàng văn hoá dân tộc[46].

Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 53, đã xác định văn hoá gắn kết chặt chẽ với bản tính con người: Một đặc điểm của con người là bản ngã nhân vị chỉ có thể đạt tới nhân tính đích thực và trọn vẹn nhờ văn hoá, nghĩa là nhờ việc trau giồi những phẩm chất thiện hảo và giá trị tự nhiên. Vì thế, cuộc sống con người bao giờ cũng gắn kết chặt chẽ với thiên nhiên và văn hoá”.

Công đồng cũng mở rộng nội dung của văn hoá:Theo nghĩa tổng quát, từ “văn hoá” chỉ tất cả những gì con người có thể sử dụng để trau giồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; để tìm cách  chế ngự cả trái đất bằng tri thức và lao động; để làm cho đời sống xã hội, cả trong đời sống gia đình cũng như nơi cộng đồng chính trị, trở thành nhân bản hơn, nhờ vào sự tiến bộ trong các tập tục và định chế; sau cùng, để diễn tả, thông truyền và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn lao của con người trải qua các thời đại, để giúp cho nhiều người, thậm chí cho toàn thể nhân loại, tiến bộ hơn”.

Trong Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á công bố năm 1999, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gián tiếp nhắc đến các yếu tố cơ bản về văn hoá để chúng ta nhận thức được nội dung lớn lao của văn hoá. Ngài xác nhận: “Châu Á có nhiều nền văn hoá”, được hiểu như là những hệ thống giá trị.  

Ngài nhắc nhở: Văn hoá là kết quả xuất phát từ cuộc sống và sinh hoạt của một tập thể nhân loại, thì đối lại những con người thuộc tập thể này lại được khuôn đúc trong một phạm vi rộng bởi chính nền văn hoáhọ đang sinh sống. Nếu con người và xã hội thay đổi, văn hoá cũng sẽ thay đổi theo. Ngược lại, nếu văn hoá đổi thay thì con người và xã hội cũng được văn hoá ấy biến đổi theo[47].

2. Giáo Hội đang muốn xây dựng nền văn hoá nào?

Trong lịch sử nhân loại, người ta đã biết đến nhiều nền văn hoá khác nhau như văn hoá bái vật hoặc bái thần, văn hoá duy vật hoặc duy tâm, văn hoá sự sống hoặc sự chết, văn hoá hữu thần hay vô thần, văn hoá xã hội chủ nghĩa hoặc cá nhân chủ nghĩa….

 2.1. Văn hoá nhân bản

Giáo hội Công giáo cổ vũ nền văn hoá nhân bản. Đây là một hệ thống giá trị bao gồm các suy tư và hành động, lấy con người làm gốc, làm nền tảng, thay vì lấy vật chất hay thần linh. Hệ thống suy tư giúp ta có những nhận thức đúng đắn về chính mình, về con người, về vạn vật cũng như về Thiên Chúa. Hệ thống hành động bao gồm những hành vi và kỹ năng sống để ta thể hiện tốt đẹp và hiệu quả những nhận thức trên.

Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo hội Công giáo đã bắt đầu xây dựng một nền nhân bản dựa vào Chúa Kitô để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và mời gọi mọi người cùng tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại[48].

Giáo hội Công giáo đã xác định rằng con người là con đường của Giáo Hội [49] và cũng là con đường của Thiên Chúa, vì “Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người” trở thành Đức Giêsu Kitô (x. Ga 1,14). Người sống với con người để làm cho tất cả những giá trị của con người thành cao cả vô biên vì “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ nơi Đức Giêsu Kitô”[50] .

2.2. Mục đích của nền nhân bản mới

Nền nhân bản này nhằm mục tiêu là đổi mới và xây dựng mỗi tín hữu thành hiện thân sống động của Đức Giêsu Kitô. Người là con người mới, con người hoàn hảo, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1,15), là Adam mới (x. Rm 5,14) vì nhờ Người mà “bản tính nhân loại của chúng ta đã được nâng lên một phẩm giá siêu việt qua mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Người” [51].

Người tín hữu nhờ kết hợp với Đức Kitô sẽ nhận được “những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần” (Rm 8,23, để trở thành con người mới có khả năng chu toàn luật yêu thương mới (x. Mt 22,40; Ga 15,12; Rm 8,1-11), xây dựng được nền văn minh tình yêu[52] cho cộng đồng nhân loại vì Đức Giêsu Kitô là nguyên mẫu và là nền tảng của nhân loại mới này [53] .

2.3. Con người  toàn diện bao gồm các lĩnh vực nào?

Nền văn hoá nhân bản toàn diện bao gồm mọi lĩnh vực của con người như thể chất và tinh thần, cá nhân và tập thể, tự nhiên và siêu nhiên, nội tâm và ngoại giới. Công đồng Vaticanô II đã lưu ý đến những lĩnh vực này trong các văn kiện, nhất là trong Hiến chế Gaudium et Spes. Công đồng lưu tâm đến thân phận con người trong thế giới ngày nay, đến phẩm giá cao cả, đến cộng đồng nhân loại và sinh hoạt của con người trong thế giới và vũ trụ. Công đồng cũng lưu ý đến một số vấn đề khẩn thiết như hôn nhân và gia đình, giáo dục và văn hoá, kinh tế và chính trị, chiến tranh và hoà bình, đối thoại liên tôn và các phương tiện truyền thông xã hội.

Bốn mươi năm sau Công đồng, Giáo hội Công giáo tổng hợp những vấn đề của con người trong cuốn Học Thuyết Xã Hội của Giáo hội Công giáo, công bố năm 2004, thành một nền văn hoá nhân bản đúng đắn và toàn diện. Nền văn hoá này còn được xác nhận qua cuốn Docat, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi tặng các bạn trẻ thế giới năm 2016.

2.4. Con người liên đới có các mối tương quan nào?

Con người toàn diện có 4 mối quan hệ căn bản với 4 tinh thần phải tập luyện để thể hiện tốt đẹp các tương quan ấy:

Trong tương quan với Thiên Chúa, con người giữ tinh thần thảo hiếu, vì Ngài là nguồn của mọi hiện hữu, của chân thiện mỹ, của sự sống vĩnh hằng và hạnh phúc vô biên.

Trong tương quan với mọi người sống trên trái đất và cả trong vũ trụ, con người giữ tinh thần huynh đệ, đối xử với nhau như anh em trong cùng một đại gia đình, không kỳ thị vì bất cứ khác biệt nào.

Trong tương quan với vạn vật, con người giữ tinh thần huynh trưởng vì Thiên Chúa Tạo Hoá đã giao phó vạn vật trên trái đất cho con người để thay Ngài quản trị muôn loài (x. St 1,26-28; Kn 2,23) và loan báo Tin Mừng cho muôn loài thụ tạo (x. Mc 16,15).

Trong tương quan với chính mình, con người giữ tinh thần tự chủ:  Tinh thần này nhắc nhở mọi người cố gắng làm chủ bản thân, tình cảm, thời giờ, tài năng, ân huệ và cả những tham vọng, dục vọng để trở thành một con người tự do thật sự trước mọi ràng buộc của cuộc sống.

3. Giáo Hội xây dựng nền văn hoá bằng cách nào?

Phương cách quan trọng được Giáo Hội cổ vũ là hội nhập văn hoá (HNVH)[54].

Hội nhập là hoà mình vào trong một cộng đồng lớn. Ví dụ: Việt Nam hội nhập vào khối ASEAN. HNVH là hoà mình vào trong nền văn hoá hay đúng hơn là chấp nhận một hệ thống giá trị mới.

Chủ thể hội nhập ở đây được xác định là một cá nhân hay một tập thể (cộng đồng Giáo Hội) tiếp nhận một phần hay toàn bộ hệ thống giá trị đã có sẵn của một dân tộc nào đó. Ví dụ các thừa sai nước ngoài đến giảng đạo đã học tiếng Việt, ăn mặc như người Việt, trình bày giáo lý theo cách hiểu của người Việt. Như thế là họ đã hội nhập vào nền văn hoá Việt Nam.

Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc đưa đức tin Kitô Giáo HNVH vào châu Á[55]. “Thánh Thần đã cho chúng ta hiểu biết chân lý toàn diện, thì cũng có thể giúp chúng ta đối thoại với các giá trị văn hoá và tôn giáo của các dân tộc được kết quả[56] .

Ngoài tác nhân chính là Chúa Thánh Thần, chủ thể hội nhập chính là Giáo Hội được hiểu như là cộng đồng Kitô hữu. Những con người này, có một nền văn hoá riêng, nghĩa là có cả một hệ thống giá trị vật chất cũng như tinh thần được sáng tạo và tích luỹ qua dòng lịch sử. Bây giờ Giáo Hội gặp gỡ và đối thoại với một nền văn hoá nào đó, “trong quá trình gặp gỡ các nền văn hoá khác nhau của thế giới, Giáo Hội chẳng những truyền đạt các chân lý và giá trị của mình, cũng như đổi mới các nền văn hoá ấy từ bên trong, mà còn thu dụng nhiều yếu tố tích cực có sẵn từ các nền văn hoá khác nhau ấy[57].

Hơn nữa, việc HNVH bao gồm nhiều giá trị trên các lĩnh vực khác nhau, nên chủ thể hội nhập có thể trao đổi, gặp gỡ và đón nhận các giá trị trên nhiều bình diện khác nhau. Vì thế, ĐTC nói đến việc đưa Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, hay đưa những giá trị về đức tin, thần học, phụng vụ, linh đạo, huấn giáo của Kitô giáo hội nhập vào một nền văn hoá nhất định[58].

Kết luận

Nhìn vào cộng đồng xã hội Việt Nam, người Công giáo chúng ta không thể không ưu tư vì số người biết Đức Giêsu hãy còn quá ít sau hàng trăm năm loan báo Tin Mừng cũng như tình trạng suy thoái về văn hoá và đạo đức của dân tộc. Chúng ta chỉ có thể cải thiện tình trạng này bằng cách xây dựng nền văn hoá toàn diện và liên đới với những cố gắng hội nhập văn hoá của mọi thành phần dân Chúa.

Câu hỏi gợi ý

1. Giáo Hội muốn xây dựng nền văn hoá với những đặc điểm nào nào?

2. Việc hội nhập văn hoá được diễn tả qua những mối tương quan nào?

 

Bài 10

Cuộc hội nhập văn hoá

trong lịch sử dân tộc Việt Nam

Lời mở

Văn hoá của một dân tộc là kết tinh của nhiều nền văn hoá trong suốt dòng lịch sử của dân tộc đó. Rồi khi nhiều người đón nhận những giá trị mới qua cuộc hội nhập văn hoá, họ lại tạo nên một nền văn hoá mới để truyền lại cho thế hệ mai sau. Từ trước đến nay, chưa có nhiều người tìm hiểu về những giá trị của các nền văn hoá khác nhau đã hội nhập và kết tinh thành nền văn hoá Việt Nam hiện nay như thế nào. Vì thế, qua bài này, chúng ta muốn tìm hiểu cách khái quát cuộc hội nhập của văn hoá trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam để có thể xây dựng những giá trị mới và đẩy lùi những nét tiêu cực có thể có trong cuộc hội nhập này khi so sánh với nền văn hoá toàn diện và liên đới của đạo Công giáo mà chúng ta tìm hiểu ở bài 5. Chúng ta tạm chia lịch sử văn hoá dân tộc Việt Nam thành 4 thời kỳ.

1. Thời kỳ đầu tiên từ đời vua Hùng đến năm 111 TCN

1.1. Văn hoá thị tộc

Trên đất nước Việt Nam hiện nay, các nhà khảo cổ học phát hiện những di tích và hoá thạch người “Homo erectus” khoảng 500 ngàn năm thuộc thời Đồ Đá Cũ [59]. Cách ngày nay khoảng 4.000 năm đến 5.000 năm, các lớp cư dân nguyên thuỷ từ miền đồi núi tiến xuống khai phá các vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và các đồng bằng ven biển, phát triển nền nông nghiệp lúa nước. Nền văn hoá bộ tộc thiểu số trải dài trên những núi đồi chuyển thành nền văn hoá làng xã với những ruộng vườn cố định.

Thời kỳ Hồng Bàng, theo truyền thuyết và dã sử, bắt đầu từ năm 2879 TCN cho đến năm 258 TCN với 18 đời Vua Hùng [60]. Từ đầu thiên niên kỷ II TCN, Việt Nam bước vào thời đại kim khí, từ đồ đồng đến đồ sắt. Đó là văn hoá Đông Sơn với nhà nước Văn Lang-Âu Lạc, văn hoá Sa Huỳnh với nhà nước Champa ở miền Trung và văn hoá Óc Eo với nhà nước Phù Nam ở miền Nam. Ba dòng văn hoá này đã dần dần giao lưu và hội nhập vào nhau tạo thành văn hoá nguyên thuỷ của Việt Nam.

Văn hoá thị tộc là nền văn hoá cơ sở của xã hội nguyên thuỷ, bao gồm nhiều gia đình lớn, có cùng một tổ tiên và có nền kinh tế chung: có chung tư liệu sản xuất, lao động tập thể và hưởng chung thành quả lao động. Các thị tộc của người Bách Việt sống theo tổ chức xã hội này. Hạt nhân của chế độ công xã nguyên thuỷ này là thị tộc mẫu quyền, được gặp thấy trong cả 3 nền văn hoá Bắc Trung Nam, cho đến khi người Việt sống dưới chế độ Bắc thuộc mới đổi sang chế độ phụ quyền. Nền văn hoá thị tộc ngoài việc đề cao sức mạnh cơ bắp để lao động kiếm ăn, còn mang đặc tính đề cao sự sinh sản để bảo tồn thị tộc, do đó ta thấy người Việt cả 3 miền đều có tín ngưỡng phồn thực, thờ sinh thực khí (linga và yoni) và thờ hành vi giao phối[61].

Văn hoá thị tộc theo mẫu quyền còn nổi bật với tín ngưỡng thờ thần Mẫu. Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới. Đạo Mẫu này càng phát triển hơn trong nền văn hoá nông nghiệp (các bà thần Mây, Mưa, Sấm chớp), sau này hoà nhập cả với đạo Lão và đạo Phật du nhập từ Trung Hoa. Các vị thần Mẫu được nhiều nơi tôn kính: Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải ở miền Bắc; Tứ Vị Thánh Nương, Bà Ngũ Hành, Thiên Y A Na ở miền Trung; Bà Chúa Động, Bà Chúa Xứ, Bà Đen ở miền Nam. Ngày 1/12/2016, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể, đại diện của nhân loại[62].

1.2. Nền văn hoá Nông nghiệp

Trong khi những bộ tộc người Việt ở vùng núi còn giữ nét văn hoá thị tộc thì những người Việt ở vùng đồng bằng hình thành nên nền văn hoá nông nghiệp với một số giá trị mới. Nền văn hoá này tồn tại hầu như trong suốt dòng lịch sử dân tộc cho đến năm 1945, khi làn sóng đô thị hoá và những ý thức hệ mới tràn vào nước ta.

Những giá trị của nền văn hoá nông nghiệp:

– Trọng tĩnh: nghề trồng trọt buộc con người sống định cư, chờ một thời gian lâu để cây trồng sinh hoa, kết trái và thu hoạch, nên con người trọng đời sống an tĩnh (an cư lạc nghiệp), nhà cửa ổn định, không thích di chuyển.

– Hoà hợp với thiên nhiên: nghề trồng trọt phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào thiên nhiên (mưa thuận, gió hoà, mưa nắng nhờ Trời) nên con người tôn thờ các sức mạnh  thiên nhiên, rút ra nhiều kinh nghiệm từ thiên nhiên (được mùa lúa, úa mùa cau; nhiều nắng tốt dưa, nhiều mưa tốt lúa)…

– Trọng đức, trọng tình, trọng nghĩa, trọng văn: do sống chung với nhau thành từng làng, trong một không gian tương đối hẹp, có luỹ tre bao bọc cũng như cùng làm việc chung với nhau, đổi công cho nhau, nên cộng đồng trọng những người có đức hạnh, có tình nghĩa để bảo đảm cho đời sống chung được tốt đẹp. Nhờ sống gần nhau, dễ dàng bảo vệ lẫn nhau nên người ta trọng những nét đẹp của văn hoá hơn võ thuật, tài trí. So với những người dân tộc sống theo kiểu du mục: từng gia đình sống riêng rẽ, để đưa đoàn gia súc của mình đi từ đồng cỏ này sang đồi núi khác, hằng ngày phải đối mặt với thú dữ, bất kể thời tiết nắng mưa, sống thế nào cũng không bị ai kết án nên người dân du mục trọng võ, trọng tài, trọng lý, trọng vật.

Thật ra, những giá trị của văn võ, tài đức, lý tình, nghĩa vật đều lệ thuộc vào nhận thức của con người về giá trị của chúng. Khi có một nhận thức đầy đủ và toàn diện về nền văn hoá, người ta sẽ thấy cần phải văn võ song toàn, tài đức trổi vượt, tình lý trọn vẹn, nghĩa vật cân bằng.

– Ứng xử linh hoạt và khoan dung: do không thể chống lại thiên nhiên và cộng đồng bằng sức mạnh cá nhân và tài trí, nên người theo văn hoá nông nghiệp thường ứng xử linh hoạt (ở bầu thì trọn, ở ống thì dài), dễ bị hùa theo đám đông (xấu đều hơn tốt lỏi), âm thầm chịu đựng những chướng ngại vật trên đời (tránh voi chẳng xấu mặt nào), nhẫn nại làm việc và hy vọng sẽ qua được cơn hoạn nạn, thiên tai (ngày mai trời lại sáng).

– Văn hoá nông nghiệp dễ tiếp nhận sự khác biệt của các ý thức hệ, các tôn giáo như đã quen chịu đựng nắng mưa, bão lụt của trời đất. Nhưng thái độ linh hoạt này lại có thể dẫn đến thái độ ứng xử ba phải (cái gì cũng đúng), thiếu chính xác trong giờ giấc vì đã quen hành động theo con nước hay theo mùa mỗi năm, đối xử với nhau theo tình cảm nên thiếu khách quan, thiếu nguyên tắc trong tổ chức, thiếu tôn trọng pháp luật (một bồ cái lý không bằng một tí cái tình; yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười; yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng).

2. Văn hoá thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN-938)

Năm 179 TCN, nước Âu Lạc do An Dương Vương lập nên bị Triệu Đà, vua nước Nam Việt xâm chiếm, rồi bị nhà Hán độ hộ từ năm 111 TCN cho đến khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 và lập chủ quyền cho đất nước.

2.1. Văn hoá nông nghiệp với tinh thần phản kháng

Người Việt liên kết với nhau trong các cộng đồng làng xã, bảo tồn tiếng Việt và các phong tục trong cộng đồng (phép vua thua lệ làng), chống lại các chính sách đồng hoá của người Trung Quốc.

– Người Việt giữ nguyên những nét căn bản của nền văn hoá nông nghiệp vì hầu hết vẫn sinh sống trong những làng xã và hành nghề nông với đời sống tự cung, tự cấp. Với ý thức phản kháng người Trung Quốc, người Việt vẫn giữ cách ăn mặc, nói năng của mình.

– Tổ chức gia đình và xã hội có sự thay đổi lớn: văn hoá dần dần nghiêng về chế độ phụ hệ, người cha là rường cột trong gia đình, gia đình trọng nam khinh nữ, xã hội theo chế độ đa thê cho phép người đàn ông có nhiều thê thiếp. Xã hội nông nghiệp cần nhiều nhân công để lao động, nên dễ dàng đón nhận các giá trị văn hoá mới này.

– Thái độ ứng xử cá nhân: chính quyền dùng chính sách chia để trị, nên gây chia rẽ giữa các địa phương, dòng họ, cá nhân với nhau khiến người Việt thường nghi ngờ, ngại ngùng với người lạ, không dám bày tỏ hay đóng góp ý kiến của mình, im lặng trước bất công khiến người khác tưởng lầm họ là kẻ đồng loã, thường tỏ thái độ bên ngoài hoà hoãn, chịu đựng, nhưng bên trong chỉ muốn ăn tươi, nuốt sống quân thù. Họ có thói quen giả vờ đồng thuận, không nói thật lòng mình, nói xấu kẻ thù vắng mặt, bao che cho đồng bào trước nỗi bất công, cùng giúp nhau lấy cắp của công vì tất cả tài sản công đều do chính tay họ làm ra. Họ thường tỏ vẻ chăm chỉ làm việc trước mắt kẻ xâm lược, nhưng khi kẻ thù quay lưng là họ ngưng làm hay chỉ làm việc cầm chừng vì không muốn làm lợi cho kẻ thù.

Nét văn hoá ứng xử này trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ đã tạo thành bản sắc của người Việt, nên khi không còn sống dưới ách kẻ xâm lăng, nhiều người Việt vẫn giữ bản sắc đó. Thái độ này cần được sửa sai bằng những nhận thức mới về giá trị con người, về công bằng xã hội, bằng những kỹ năng làm việc chung và hợp tác với nhau vì công ích, và bằng nhận thức về một Thiên Chúa, một ông Trời nhìn thấu mọi sự và xét xử công minh.

2.2. Đón nhận một số giá trị mới của văn hoá Trung Quốc

Qua việc tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với người Trung Quốc, người Việt nhận ra nhiều giá trị mới của văn hoá Trung Quốc.

Trước hết là sức mạnh quân sự với chiến lược, vũ khí, hoả pháo, chiến thuyền khiến người Trung Quốc thắng được Việt Nam. Tiếp theo là chữ viết và văn hoá Trung Quốc trổi vượt so với tiếng Việt còn non trẻ. Trước khi bị người Trung Quốc đô hộ, nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có chữ viết riêng, gọi là chữ Khoa Đẩu, giống hình con nòng nọc[63]. Tuy nhiên, các giá trị văn hoá mới này bị người Việt nghi ngờ, nhiều làng xã tẩy chay, vì người Việt vẫn ý thức về ý đồ bành trướng, đồng hoá của người Trung Quốc.

3. Văn hoá thời kỳ quân chủ độc lập (938-1945)

3.1. Lịch sử: thời kỳ này kéo dài 10 thế kỷ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, với ba triều đại nhỏ: Ngô (939-965), Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009); 4 triều đại lớn: Lý (1009-1225), Trần (1226-1400), Lê (1428-1788), Nguyễn (1802-1945); xen kẽ với 3 triều đại nhỏ là Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1414), Tây Sơn (1788-1802).

Từ thế kỷ XVI, quan hệ giao thương với nước ngoài phát triển mạnh, dẫn đến sự phồn vinh của nhiều đô thị, cảng biển. Văn hoá dân tộc phát triển và giao lưu với các nước trong khu vực và một số nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh , Pháp. Đây cũng là thời kỳ Thiên Chúa giáo bắt đầu được truyền bá tại Việt Nam. Các làng nghề thủ công phát triển ở miền Bắc với nghề ươm tơ tằm, dệt lụa và ở miền Trung, miền Nam với nghề làm đồ gốm. Đây là những sản phẩm để trao đổi với nước ngoài.

Triều đại Tây Sơn, với vua Quang Trung Nguyễn Huệ, có nhiều chính sách cải cách về ruộng đất và văn hoá (coi trọng chữ Nôm) có lợi cho người dân, nhưng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Chúa Nguyễn Ánh, với sự giúp đỡ của người Pháp, đã đánh bại nhà Tây Sơn, mở đầu triều đại nhà Nguyễn khi lên ngôi vua năm 1802, đóng đô ở Phú Xuân, Huế, đặt quốc hiệu là Việt Nam. Trước sức mạnh quân sự, kỹ thuật vượt trội của phương Tây, triều Nguyễn không có những cải cách để khắc phục tình trạng lạc hậu của đất nước, dùng chính sách bế quan toả cảng và hệ tư tưởng Nho giáo chống lại hệ tư tưởng Thiên Chúa giáo nên dẫn đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp (1858-1884) và nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Tây (1884-1945).

3.2. Văn hoá

Người Việt vẫn giữ được những nét tiêu biểu của nền văn hoá nông nghiệp nhưng  nhận ra giá trị cao cả, linh thiêng của đất nước vì đã phải trả giá đắt cho nền độc lập và tự do của dân tộc qua các cuộc chiến tranh. Do phải chịu những cuộc nội chiến giữa các triều đại, người Việt thấy đời sống có vẻ tạm bợ, nặng nề, nên thường có tâm trạng bi quan, thiếu vẻ dấn thân, yêu đời.

Phật giáo chiếm địa vị độc tôn về tín ngưỡng trong dân chúng, nhất là trong 2 triều Lý Trần. Những giá trị văn hoá của Phật giáo để lại là thái độ bi quan, yếm thế, cho đời là vô thường, là bể khổ và giữ cho con người ăn ngay ở lành để được đầu thai vào kiếp sau tốt đẹp hơn. Vì được quần chúng tôn trọng và chính quyền ưu đãi, nên nhiều vị tu hành đánh mất tư cách đạo đức. Do đó, đại đa số dân chúng quay trở về với việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đạo Mẫu và thờ các vị Thành Hoàng.

Nhà nước phong kiến đã chọn Khổng giáo làm quốc giáo để bảo đảm quyền lực, nhằm tổ chức một xã hội ổn định, trật tự, kỷ cương ở trần thế, chứ không quan tâm đến những chuyện thần thánh ở thế giới mai sau. Nho giáo chiếm lĩnh đời sống tinh thần qua những văn thơ, kinh sách được phổ biến trong dân chúng và dần dần chiếm thế độc tôn từ thế kỷ XV trở đi. Hệ thống tư tưởng Nho giáo tuy giữ cho dân tộc ổn định trong thời đại nhiễu nhương nhiều thế kỷ, nhưng lại kìm hãm sự phát triển, đổi mới, mở ra cho khoa học tiến bộ. Những nhà trí thức thường chỉ quanh quẩn với những vần thơ, bài phú ca tụng dòng họ, tìm danh lợi trong chốn quan trường.

Bắt đầu từ thế kỷ XVI, những giá trị mới của Kitô giáo bắt đầu được truyền bá ở Việt Nam tạo nên những xung đột dữ dội với hệ thống tư tưởng của Khổng giáo. Nhờ thông thạo tiếng Việt và sáng chế ra cách ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh thay cho chữ Nôm, các nhà truyền giáo dòng Tên từ năm 1615-1665 đã giới thiệu những giá trị nền tảng của Kitô giáo về nền dân chủ, về gia đình một vợ một chồng sống chung thuỷ với nhau suốt đời, về sự bình đẳng nam nữ vì đều có nhân phẩm như nhau, về những khoa học thường thức để giúp cho đời sống khoẻ mạnh và tươi đẹp nên được nhiều người Việt đón nhận.

Sau khi quân đội Pháp bắn thị uy vào cảng Đà Nẵng năm 1847 và nhanh chóng chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1862, cuộc bách hại người Công giáo trở nên hết sức khốc liệt vì vua quan đổ tội cho người Công giáo theo gót kẻ xâm lăng. Nhiều đám dân chúng cũng hùa theo quân lính triều đình cướp phá các làng trù phú của người Công giáo với khẩu hiệu “bình Tây sát Tả”. Tuy nhiên nhiều nhà Nho nổi tiếng yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ ngoại hầu Cường Để, Lương Văn Can, qua các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, đã minh oan cho người Công giáo và hô hào toàn dân hãy đón nhận những giá trị mới về dân chủ, bình đng nam nữ, hôn nhân một vợ một chồng, chữ Việt và tinh thần cởi mở với khoa học kỹ thuật của người Công giáo[64]. Những giá trị của nền văn hoá Công giáo đã được toàn dân Việt đón nhận để bước vào một giai đoạn mới của đất nước.

4. Văn hoá thời kỳ phát triển và hội nhập với thế giới (1945- nay)

4.1. Lịch sửSau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, qua Hiệp định Genève, quân Pháp rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Việt Nam được chia thành 2 miền theo hai ý thức hệ khác nhau: miền Bắc theo chủ nghĩa Cộng Sản, miền Nam theo chủ nghĩa Tư bản với tên nước là Việt Nam Cộng Hoà. Hai miền lại bắt đầu chiến tranh khốc liệt cho đến ngày 30/4/1975. Cuộc hội nhập vào nền văn hoá thế giới của dân tộc Việt Nam bắt đầu từ 1986 khi Đảng Cộng Sản Việt Nam công bố thời kỳ đổi mới và kéo dài đến ngày nay. Việt Nam gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là thành viên chính thức của tổ chức này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập WTO đã mở ra cơ hội lớn người Việt hoà nhập vào nền văn hoá thế giới với xu hướng đô thị hoá, hiện đại hoá nhờ khoa học kỹ thuật và mở ra với mọi nguồn văn hoá đại chúng nhờ sách báo, phim ảnh, truyền hình, intrenet và điện thoại thông minh.

4.2. Văn hoá.

Những giá trị văn hoá được tạo nên trong thời kỳ xung đột mãnh liệt giữa các ý thức hệ khi hai miền Nam Bắc trở thành tiền đồn của hai thế giới Tư bản và Cộng sản, cũng như những giá trị văn hoá của các dân tộc phản ánh tâm tư của nhân loại trong một giai đoạn nhất định của lịch sử, đều đáng trân trọng. Chúng giống như những chất liệu đường, chanh, muối, nước, tự bản thân và để riêng rẽ thì rất tốt, nhưng khi hoà trộn vào nhau mà không được điều chỉnh định lượng cho phù hợp thì không thể trở thành ly nước chanh ngon ngọt, bổ dưỡng, trái lại, còn làm nguy hại đến sức khoẻ con người. Đấy là trường hợp của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển với thế giới hiện nay khi có quá nhiều những giá trị đối chọi nhau.

Nhiều giá trị trong nền văn hoá truyền thống bị loại bỏ như niềm tin vào Trời, giá trị của các tôn giáo, vì một số người quá say mê cái mới, nhất là khi chính quyền công khai loại bỏ chúng ra khỏi chương trình giáo dục, đào tạo con người. Nhiều người trẻ choáng ngợp trước vẻ hào nhoáng của khoa học hiện đại nên bỏ hết những kinh nghiệm ngàn đời của tổ tiên. Người ta bị cuốn hút vào cơn lốc xoáy của việc hưởng thụ vật chất, đánh giá nhau theo những phương tiện, bằng cấp, tài sản bên ngoài, nên không còn trọng tình nghĩa, đức hạnh, từ đó gây nên sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình, suy thoái trầm trọng đạo đức xã hội. Tội ác, tham nhũng, bất công và nhiều tệ nạn xã hội tràn lan khắp nơi. Vấn đề cần giải quyết là chính quyền cũng như mỗi người dân nhận thức được giá trị của việc hội nhập văn hoá và thực hiện việc hội nhập này như thế nào cho có kết quả tốt đẹp.

Lời kết

Vì thế, khi tìm hiểu về cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử dân tộc Việt Nam và kết quả hiện nay của nền văn hoá dân tộc, mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm phân định những giá trị nào cần tiếp tục gìn giữ và phát huy, giá trị nào nên loại bỏ hoặc điều chỉnh mức độ hợp lý tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Dù đây là trách nhiệm nặng nề của chính quyền và những người lãnh đạo trong cộng đồng xã hội, nhưng cá nhân mỗi người, như một thực thể chịu ảnh hưởng của văn hoá, vẫn là chủ thể tác động vào nền văn hoá và thay đổi được những giá trị cho thế hệ tương lai. Như thế chúng ta vẫn có quyền sống trong niềm tin và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp cho từng người cũng như cho dân tộc Việt Nam.

 

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn đã thu nhận được những giá trị nào trong dòng lịch sử văn hoá của dân tộc?

2.Bạn hãy liệt kê những giá trị lỗi thời mà hiện nay người Việt đang nắm giữ và đề nghị sửa đổi bằng giá trị nào của nền văn hoá Công giáo?

 

Bài 11

 Cuộc hội nhập văn hoá
của các tín hữu Công giáo thời trước

Lời mở

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày 117 vị tử đạo Việt Nam được tuyên thánh, chúng ta hãy ôn lại những giá trị cao quý mà những tín hữu Công giáo thời các ngài đã làm chứng và trao lại cho dân tộc Việt Nam khi theo Chúa Giêsu Kitô. Từ đó ta sẽ nhận ra mình cần phải làm gì để làm chứng cho Người.

1. Bản sắc dân tộc Việt và nền văn hoá Trung Quốc

Dân tộc Việt Nam, sau hơn 1000 năm bị người Trung Quốc đô hộ, từ năm 111 TCN cho đến năm 938, đã được độc lập khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Nhưng từ đó cho đến đầu thế kỷ XX, người dân Việt vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hoá Trung Quốc. Nền quân chủ chuyên chế của các đời vua Việt, lấy Khổng giáo làm nền tảng để nắm giữ vương quyền, đã kìm hãm sự phát triển của dân tộc suốt cả ngàn năm qua.

Ngoại trừ tiếng Việt và niềm tin vào Trời còn giữ được như bản sắc dân tộc, người Việt hầu như sống theo những giá trị văn hoá Trung Quốc. Người Việt dùng chữ Hán trong việc học hành, thi cử. Sau này với tinh thần phản kháng, người Việt phát minh ra chữ Nôm nhưng căn bản vẫn là những chữ Hán được thêm vào ít nét để tạo thành chữ riêng cho dân tộc. Những phong tục cưới xin, cúng giỗ, lễ tết, ma chay, ăn mặc, cấy cày, nghề nghiệp hầu như đều là sản phẩm từ Trung Quốc nhập vào.

Luân lý xã hội đặt nền tảng trên 3 mối tương quan chính: vua tôi, cha con, chồng vợ, gọi là tam cương (quân thần, phụ tử, phu phụ), và thêm mối 2 tương quan khác là anh em, bạn hữu, gọi là ngũ luân (huynh đệ, bằng hữu) . Vua là thiên tử, là con trời, thay trời trị dân nên vua có toàn quyền sinh sát trong tay. Vua bảo chết mà bầy tôi không chết thì bị coi là bất trung. Xã hội coi trọng người đàn ông, tạo nên sự bất bình đẳng nam nữ, cho phép người đàn ông có nhiều vợ. Còn người phụ nữ phải giữ tam tòng, tứ đức: “ở nhà thì theo cha, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con” nên suốt đời sống lệ thuộc vào người khác[65].

Cách học từ chương của người Trung Quốc lấy Tứ Thư, Ngũ Kinh làm nền tảng, chỉ quanh quẩn với những bài văn, bài thơ xoay quanh vài ba chủ đề hẹp hòi, ca tụng chế độ, không dám đi sâu vào bất cứ điều gì, vì nếu lỡ lời, dùng chữ không đúng là có thể bị ghép vào tội phản loạn, khi quân và bị giết cả dòng họ. Vì thế, xã hội chẳng biết gì đến khoa học, kỹ thuật, đến những giá trị mới mẻ, tiến bộ của loài người.

2. Những giá trị cao quý và mới mẻ

Chỉ từ khi những nhà truyền giáo phương Tây đến Việt Nam từ thế kỷ XVI, nhất là các linh mục dòng Tên, từ năm 1615-1665, dân tộc ta mới biết đến những giá trị mới mẻ và cao quý vượt lên trên nền văn hoá Trung Quốc. Đó là những giá trị về dân chủ, về hôn nhân một vợ một chồng, về bình đẳng nam nữ, về khoa học kỹ thuật, về chữ viết căn cứ vào âm vị học thay cho thứ chữ tượng thanh, tượng hình của người Tàu. Nhưng, thay vì cả dân tộc đón nhận những giá trị mới, lại chỉ có một số ít người tin vào lời rao giảng của các nhà truyền giáo mà đi theo Đức Giêsu Kitô và họ đã phải trả giá rất đắt cho các giá trị này.

Ý niệm dân chủ bắt nguồn từ việc nhận biết có một Đức Chúa Trời là cha chung của muôn loài, nên tất cả đều là anh em với nhau. Vì thế, không ai có quyền sinh sát trên người khác. Hơn nữa, Đức Giêsu là Con Một Chúa Trời, là Thiên Tử, mà còn chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho mọi người, thì mọi người đều phải thương yêu nhau và dám chết cho nhau. Nhưng ý niệm người dân làm chủ đất nước này không được các vua chúa chấp nhận vì nó đi ngược với chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài.

Trong đại gia đình Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng với nhau về giá trị con người, dù họ là nam hay nữ, già hay trẻ, giàu hay nghèo, là vua hay bầy tôi. Ai nấy đều được tôn trọng, được học hành, làm việc như nhau. Tuy nhiên, cộng đồng vẫn giữ tôn ti trật tự trong xã hội.

Gia đình Công giáo chỉ có một vợ một chồng, không có cảnh “chồng chúa, vợ tôi”, “vợ cả, vợ lẽ”, “con bà, con tôi” nên trong nhà luôn an vui hạnh phúc và đấy ắp tiếng cười.

Dân Việt thời đó do không hiểu biết nhiều về khoa học, chưa biết giữ vệ sinh, nên nhiều trẻ thơ bị chết yểu, nhiều sản phụ bị chết khi sinh con do bị nhiễm trùng. Hằng ngày người ta dùng nước ao tù để tắm rửa, ăn uống nên dễ bị các bệnh toét mắt, ghẻ lở, giun sán, đường ruột. Còn người Công giáo, nhờ các giáo sĩ Tây Phương dạy các khoa học thường thức nên biết lọc nước bằng than cát sỏi để dùng, biết nấu nước chín để uống, biết giữ vệ sinh nên trở thành những người khoẻ mạnh, xinh đẹp, thông minh, tài giỏi.

Tuy nhiên, các tín hữu Công giáo thời đó, ngay từ thế kỷ XVIII, đã phải trả giá rất đắt cho những giá trị mới mẻ này. Vua chúa thù ghét họ về ý niệm dân chủ. Quan lại và những người trí thức được đào tạo theo Khổng giáo thù ghét họ vì thứ chữ viết gọi là chữ Quốc ngữ mà cả dân tộc ta đang dùng. Những đám dân nghèo ghen tức, chỉ muốn cướp phá các làng trù phú của người Công giáo, vì các tín hữu giàu có nhờ biết dạy nghề cho nhau, buôn bán thật thà. Hàng chục ngàn người đã bị giết trong thế kỷ XVIII. Nhất là từ khi người Pháp xâm lăng nước ta, hàng trăm ngàn người đã bị giết từ năm 1840-1886 do Phong trào Văn Thân lấy lý do là người Công giáo cộng tác với kẻ thù. Với số dân đông đúc và sự giàu mạnh, người Công giáo thời đó đủ sức nhờ người Pháp mua tàu chiến, súng đạn để chống lại kẻ giết hại mình. Nhưng họ đã cam lòng chịu chết mà không oán hận để noi gương Chúa Giêsu làm chứng cho lòng mình yêu mến quê hương[66].

3. Những giá trị mới cần người Công giáo thời nay làm chứng

Công trình làm chứng cho Đức Giêsu về những giá trị mới mẻ của nền văn hoá Công giáo như đang mời gọi các tín hữu Công giáo dấn thân vào một giai đoạn mới từ năm 1945 đến nay. Sau khi cả dân tộc Việt đón nhận những giá trị mới về dân chủ, bình đẳng nam nữ, hôn nhân một vợ một chồng, khoa học hiện đại và chữ Quốc Ngữ, nhiều tín hữu tưởng rằng mình đã đạt được mục đích. Họ vui mừng, hãnh diện và ngủ quên trong chiến thắng, trong khi Đức Giêsu mời gọi họ tiếp tục làm chứng cho Người: “Ai xấu hổ vì tôi và vì những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9,26).

Những giá trị mới mẻ được tìm thấy trong lời dạy của Chúa Giêsu, nhất là qua Tám Mối Phúc: đó là “tinh thần nghèo khó, hiền hoà, thánh thiện, trong sạch, liêm chính, yêu thương, quảng đại, hy sinh vì đại nghĩa” và nhiều giá trị khác được Giáo Hội giới thiệu qua Công đồng Vaticanô II, qua sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, qua sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo.

Dân tộc Việt Nam chúng ta đang đứng trước những nguy cơ mới, tai hại và khốc liệt hơn cả thời trước đây. Người ta đang cổ vũ cho nền văn hoá sự chết khi dùng các phương tiện truyền thông xã hội để thúc đẩy con người bỏ đi niềm tin vào Trời là Đấng linh thiêng soi thấu lòng người và thưởng phạt công minh. Người ta hô hào một xã hội duy vật trong đó con người chỉ biết kiếm tìm danh lợi, hưởng thụ vật chất bằng bất cứ giá nào khiến cho đạo đức suy đồi, tham nhũng, bất công, phá thai, nghiện ngập, lừa dối xảy ra ở khắp nơi có thể dẫn đến hiểm hoạ diệt vong cho dân tộc.

Lời kết

Vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha rộng ban Thánh Thần tình yêu và sức mạnh cho chúng ta, qua lời chuyển cầu của các thánh Tử đạo Việt Nam, để chúng ta noi gương các bậc tổ tiên anh hùng làm chứng cho Đức Giêsu Kitô. Chúng ta quyết tâm xây dựng nền văn hoá Công giáo hằng những hành động cụ thể để cho mọi người cảm nghiệm được Nước Trời đang ở giữa họ, nước “tràn đầy sự thật và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, tràn đầy công lý, bình an và tình yêu[67].

Câu hỏi gợi ý

1. Các tín hữu Công giáo thời xưa đã sống như thế nào để thu phục đồng bào tin theo Chúa Giêsu Kitô?

2. Tín hữu thời nay nên sống cụ thể tích cực ra sao để làm chứng cho Nước Trời?

 

Bài 12

 Nói lời sự sống

Lời mở

Mỗi năm chúng ta  mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhiều nơi trên khắp thế giới người ta tổ chức Lễ hội Giáng Sinh, trưng bày những cây thông Noel với đèn sao rực rỡ, trao gửi thiệp mừng và quà tặng cho nhau để biểu lộ niềm vui. Nhiều tín hữu Công giáo cũng hoà theo niềm vui đó. Nhưng ít người hiểu biết và cảm nhận được “niềm vui trọn vẹn” (x. 1Ga 1,4) của người tín hữu vì “Ngôi Lời sự sống” (x. 1 Ga 1,1) mặc lấy thân xác con người, hoà nhập vào vũ trụ để biến đổi tất cả và cho tất cả được tham dự vào sự sống Thiên Chúa của Người. Kể từ đó lời nói của Kitô hữu không chỉ là những âm thanh, tiếng nói của con người mà có thể biến thành lời sự sống kỳ diệu của Thiên Chúa.

1. Tiếng nói trong lịch sử con người

Xét theo lĩnh vực thông tin, người ta chia lịch sử văn minh của loài người thành 4 thời kỳ: tiếng nói (40.000 TCN – 4.000 TCN), chữ viết (4.000 TCN– 1000), ấn loát (1000-1900), tin học (thế kỷ XX – nay). Thời kỳ sau bổ túc cho thời kỳ trước và mỗi thời kỳ tiếp tục tồn tại và phát triển, như chúng ta đang ở trong thời kỳ tin học nhưng vẫn dùng tiếng nói, chữ viết, sách báo in để truyền thông tin cho nhau[68].

Con người, ngay từ khi xuất hiện trên mặt đất, đã biết kêu hú, la hét như nhiều sinh vật khác. Tiếng kêu chỉ trở thành lời nói nhờ những con người biết suy tư (homo sapiens) xuất hiện cách đây khoảng 40.000 năm trước Công nguyên. Ngày nay nhiều sắc dân trong các vùng rừng rậm ở Nam Mỹ, châu Phi, châu Úc vẫn còn sống trong giai đoạn tiếng nói sơ khai như đồng bào Rục ở Việt Nam. Ngôn ngữ của họ, với khoảng 500 – 1000 từ, chỉ đủ diễn tả những sinh hoạt bình thường chứ không thể bày tỏ những cảm tình sâu xa và tư tưởng cao đẹp như tiếng nói của một số dân tộc văn minh khác[69].

2. Tiếng Việt trong lịch sử dân tộc

Dân tộc Việt gồm các bộ tộc sống trong những hang động ở miền núi phía Bắc cách đây hơn 4000 năm, từ thời Hồng Bàng cho đến 18 đời Vua Hùng, đã có tiếng nói và chữ viết riêng[70]. Trước bạo lực và thủ đoạn đồng hoá của người Trung Quốc, dân tộc Việt vẫn giữ nguyên được tiếng nói của mình trong suốt hơn 1000 năm bị đô hộ và đã phát triển thành một ngôn ngữ phong phú với trên 41.000 từ như hiện nay[71].

Người Việt luôn nhắc nhở nhau bảo tồn quốc ngữ vì “tiếng Việt còn là nước ta còn”, dạy bảo con cháu “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, cần phải “học ăn, học nói, học gói, học mở”, “biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”…[72].

Nhiều người Việt chưa ý thức tầm quan trọng của tiếng Việt trong việc gìn giữ và bảo vệ đất nước, trong việc hun đúc tinh thần dân tộc, trong việc phát triển tiếng Việt và chữ Việt giữa cộng đồng nhân loại. Có những đứa trẻ Việt sống trên đất nước mà phải dùng tiếng Anh, tiếng Pháp để nói với cha mẹ. Có những người Việt ở nước ngoài không nói được tiếng Việt vì cha mẹ chúng không còn biết đến quê hương. Rất nhiều người trẻ Việt Nam đang dùng những kiểu nói lai căng, lố lăng, sống sượng để thông tin cho nhau qua những dòng tin nhắn, mà không ngờ đang phá huỷ, hạ thấp tiếng nước mình.

3. Để nói nên lời

Có lẽ ta nên tìm hiểu sơ qua con người làm gì để nói nên lời. Từ nhiều thế kỷ qua, khoa học đã tìm hiểu tại sao con người biết nói và có ngôn ngữ riêng. Nhiều lý thuyết đã được nêu ra nhưng chưa làm sáng tỏ vấn đề. Năm 2009, một số nhà khoa học Hoa Kỳ đã nói đến sự đột biến gen FOXP2 khiến con người có thể nói chuyện, tạo ra ngôn ngữ, trong khi loài khỉ, chỉ biết kêu la[73].

Ngày nay, số trẻ tự kỷ không biết nói hoặc nói những từ vô nghĩa ngày càng tăng. Nhiều phụ huynh không dành thời giờ nói chuyện với trẻ. Nhiều người muốn tránh cho chúng phá phách, quấy khóc nên bật máy Ipad hay điện thoại cho chúng xem hình, trò chơi. Vì thế, nhiều trẻ không biết nói, nghe và hiểu được như các trẻ bình thường.

Để nói nên lời, trước hết con người thu nhận tất cả những âm thanh và lưu trữ chúng ở vùng vỏ não thính giác. Để phân biệt được tiếng chó sủa, tiếng mèo kêu khác với từ “chó”, “mèo”, cần có sự trợ giúp của vùng vỏ não ngôn ngữ Broca. Vùng ngôn ngữ Wernicke giúp hiểu ý nghĩa của từ “chó”, “mèo” là các con vật. Vùng ngôn ngữ Geschwind nối kết 2 vùng Broca và Wernicke để từ “chó” được phát âm gắn liền với nghĩa “một sinh vật” chứ không phải là khẩu súng (chó lửa). Vùng vỏ não thị giác ở phía gáy lưu trữ tất cả các hình ảnh về chó, về mèo. Thể Tam giác ở phần não trắng lưu giữ các hoàn cảnh và từ ngữ “chó” dùng như thế nào. Vùng vỏ não vận động trên đỉnh đầu khởi động quá trình nhận thức hoặc cử động tay, chân, môi, lưỡi, răng để nói được từ muốn nói. Vùng điều hành trung tâm ở trán sẽ tổng hợp tất cả hoạt động của các vùng, kể cả cảm xúc về con chó, con mèo. Rồi lệnh từ trung tâm điều khiển đến thanh quản, khiến con người nói lên câu: “Con chó của tôi”[74].

Như thế, lời nói là một sản phẩm trí tuệ kỳ diệu, chỉ con người mới có thể thực hiện được trong muôn loài đang sống trên mặt đất này.

4. Lời của Thiên Chúa

Trong lịch sử các tôn giáo, người ta kể nhiều chuyện về việc thần linh giao tiếp với con người, soi sáng và dạy dỗ họ nhiều điều. Những lời dạy của thần linh, của Thiên Chúa có một giá trị siêu việt, cao cả mà con người phải tuyệt đối vâng theo. Thiên Chúa còn chọn ra một số người xứng đáng, soi sáng cho họ biết những ý định của mình và nhờ họ chuyển lời của mình đến cho dân tộc hay cho những con người khác. Vào thời điểm cuối cùng, Thiên Chúa sai Con Một của mình đến nói trực tiếp với con người để ai tin vào Người Con đó sẽ được cứu độ, được trở thành con cái Thiên Chúa và được sống mãi mãi như Thiên Chúa (x. Dt 1,1-2).

Người Con Một đó là Ngôi Lời Thiên Chúa đã tự nguyện trở thành người, mặc lấy thân xác người phàm để đưa bản tính Thiên Chúa vĩnh hằng, hạnh phúc vô tận, quyền năng vô biên, sự sống phi thường vào trong con người hữu hạn, vô thường, đau khổ và chết chóc này. Đó là lý do tại sao người Kitô hữu mừng lễ Chúa Giáng Sinh: vì lời Thiên Chúa đã trở thành Đức Giêsu Nazareth và ở giữa chúng ta (Ga 1,14). Sự kiện này đã xảy ra cách đây 2018 năm và người Kitô hữu vẫn cử hành kỷ niệm này.

Tuy nhiên, theo dòng lịch sử 2000 năm, người Kitô hữu quá tập trung vào ý nghĩa của Lời Chúa, như những tiếng nói, được ghi lại trong các cuốn Thánh Kinh Cựu-Tân Ước, quá tập trung vào các nghi lễ, bí tích, rồi trong những năm gần đây họ cũng hăng hái học hỏi, suy niệm để “Sống Lời Chúa”. Đường hướng sống này càng làm họ xa rời Đức Giêsu vì không gặp được Người như một Thiên Chúa sống động cụ thể đang hiện diện giữa con người và vạn vật, mà chỉ tìm thấy những ý nghĩa trừu tượng của chữ viết trong cuốn Thánh Kinh, được giải thích qua một con người hay một thánh nhân.

Đức Giáo hoàng Phanxicô nhiều lần nhắc đến lầm lẫn này khi trưng dẫn câu nói của Giáo hoàng Bênêđictô XVI: “Khi nói đến Tin Mừng, chúng ta không được chỉ nghĩ về nó như là một cuốn sách hay một tập hợp những lời giáo huấn. Tin Mừng là một cái gì nhiều hơn nữa, nó là một lời sống động và linh nghiệm, nói điều gì thì điều đó trở thành hiện thực. Tin Mừng không chỉ là một hệ thống các điều khoản đức tin và giới răn đạo đức… mà là một con người. Đó là Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa đã làm người…[75].

Khi người tín hữu tin vào Đức Giêsu và kết hợp mật thiết với Người, họ được trở thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm, trở thành chính Lời Thiên Chúa cho mọi người. Họ nhận được sức mạnh, quyền năng, tình yêu, ân sủng vô tận của Chúa Giêsu chuyển thông cho họ, để từng lời nói của họ có sức sáng tạo của Chúa Cha, sức cứu độ của Chúa Con và sức thánh hoá của Chúa Thánh Thần. Giống như Chúa Giêsu, lời của họ không còn là lời tự nhiên của con người, nhưng trở thành Lời sự sống, Lời chân lý, Lời Tin Mừng như Chúa Giêsu. Lời đó phán ra có thể làm cho bánh cá hoá nhiều, gió yên biển lặng, chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ, làm cho cả kẻ chết sống lại như đã chứng minh trong đời sống của các tông đồ và môn đệ Chúa Giêsu.

5. Nói lời sự sống

Muốn nói được những lời như thế, người tín hữu phải chuẩn bị những gì? Mẹ Maria dạy cho chúng ta biết phải làm gì.

Trước hết, ta phải mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần, phải thở hít được Thần Khí của Chúa Giêsu Phục Sinh đã thổi trên các môn đệ. Khi đón nhận được Thần Khí là Chúa Thánh Thần, ta biến đổi mình từ con người tầm thường, tội lỗi, ngu dốt trở thành người phi thường, thánh thiện như các môn đệ thời xưa để đi đến đâu, các ngài làm phép lạ đến đó.

Trong cuộc sống thường ngày, ta thở khí tự nhiên. Từng giây phút ta cần oxy để biến dòng máu đen thành dòng máu đỏ nuôi sống từng tế bào. Khí tự nhiên rất cần trong đời sống, nhưng khí siêu nhiên là Chúa Thánh Thần còn cần hơn nữa vì biến đổi dòng máu đen tội lỗi thành dòng máu đỏ tinh tuyền của Chúa Giêsu. Muốn nói lời nào đó, ta phải hít khí vào trong buồng phổi, khi thở ra khí sẽ qua thanh quản để phát ra lời. Lời Chúa cũng vậy, ta phải hít linh khí vào trong người thì mới có thể phát ra lời sự sống như Chúa Giêsu. Vậy ta đã thở được Thần Khí đó chưa?

Như Mẹ Maria đã mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần để Ngôi Lời hình thành trong lòng Mẹ, từ đó Mẹ sinh Chúa Giêsu cho thế giới. Ta cũng mở lòng ra như Mẹ: dâng hồn xác, mọi phương tiện vật chất cũng như tinh thần để hình thành nên Chúa Giêsu trong lòng ta. Khi nói Lời Chúa là ta sinh Chúa Giêsu cho người khác và thế giới. Vì thế ta phải tránh lời nói tục, nói dối, nói xấu, lời bất hoà, gây chia rẽ, làm thương tổn con người. Trong cơn nóng giận, ta đừng vội nói ngay. Hãy bình tâm vài giây để hít thở dài hơi và nói thầm: “Lạy Chúa, xin ban Thần Khí của Chúa cho con”. Nhờ thở như thế, nhiều khí oxy trong máu đưa lên não làm cho ta bình tĩnh lại, ta sẽ không nói theo cơn giận và làm chủ được lời nói của mình.

Đi xa hơn nữa, khi bắt đầu thở được Thần Khí của Chúa, lời của ta có thể làm cho người khác được chữa lành, được giải thoát khỏi ma quỷ. Đó là ơn mà Chúa Giêsu ban cho khi Người sai chúng ta: “Anh em hãy đi khắp nơi loan báo Tin Mừng, đặt tay chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ” (x. Mc, 16,15-18), bởi vì ta là hiện thân của Ngôi Lời Sự sống cho thế giới này.

Lời      kết
Vì thế, gắn bó với Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu, chúng ta cố gắng chỉ nghĩ điều tốt đẹp, chỉ nói lời chân thành, chỉ làm việc chính đáng.

Câu hỏi gợi ý

1. Khi xưng thú tội lỗi, bạn đang nói lời gì: nói dối, nói điêu, nói khoác, nói kháy, nói láo, nói ngang, nói quanh, nói suông, nói thách,  nói tục, nói xấu, chửi thề…?

2. Bạn làm gì để sửa đổi lời nói của mình thành lời sự thật và sự sống, lời tạo nên niềm vui, hy vọng và cứu độ cho người khá

 

Bài 13

Lập kế hoạch sống

Lời mở

Chúng ta đang bắt đầu một Năm Mới Dương lịch và chuẩn bị Năm Mới Âm Lịch. Các bài Kinh Thánh trong tuần thứ III Thường Niên mời gọi chúng ta nhìn vào kế hoạch đời sống của mình để xem nó có phù hợp với kế hoạch của Đức Giêsu và kế hoạch của Thiên Chúa hay không. Nhờ đó chúng ta có thể thực hiện trong năm mới này, tạo nên cho mình niềm vui, hạnh phúc và ơn cứu độ.

1. Tình trạng sống của nhiều người không có kế hoạch

“Kế hoạch là toàn bộ những điều vạch ra một cách có hệ thống và cụ thể về cách thức, trình tự, thời hạn tiến hành công việc, dự định làm trong một thời gian nhất định với mục tiêu nhất định”[76].

Nếu xét theo định nghĩa này, thì nhiều cá nhân cũng như nhiều tổ chức trong xã hội và Giáo Hội, làm việc rất tuỳ tiện, không có một kế hoạch thật sự nào. Người ta để mặc cho hoàn cảnh đẩy đưa, cho môi trường chung quanh tác động, cho người khác ảnh hưởng: ăn giờ nào cũng được, ngủ nghỉ giờ nào cũng xong, bạn bè đến chơi lúc nào cũng quý, …Vì thế nên đời sống thiếu sự điều độ, lãng phí nhiều thời giờ, sức lực, phương tiện, của cải, tiền bạc, và không phát huy được những tài năng, ân sủng Chúa ban. Bạn bè rủ đi chơi, chẳng suy nghĩ gì, ta đi liền. Đi vài tiếng đồng hồ về, nhìn lại thấy mình bỏ mất một số việc cần làm. Bạn bè rủ đi học Anh ngữ, không suy nghĩ, ta đăng ký, học xong không biết dùng làm gì trong khi ta cần học nhiều chuyên môn khác! Kỳ nghỉ Tết bạn bè rủ đi du lịch hành hương, ta đi liền, đi cho bạn vui, cho mình nghỉ ngơi ít ngày, chứ không tìm hiểu xem nó có ở trong kế hoạch mà Chúa Giêsu muốn chúng ta làm hay không.

Nói không có kế hoạch thì hơi quá đáng, nhưng nhiều tổ chức xã hội cũng như Giáo Hội lập kế hoạch quá đơn sơ, không thực tế, viển vông nên thực hiện không được. Kế hoạch của chính quyền TP.HCM năm vừa rồi là không để ngập lụt xảy ra. Vậy mà năm nào cũng lụt, mỗi ngày một nặng hơn. Nhiều uỷ ban, công ty, tổ chức ở Việt Nam vào dịp này tổ chức họp mặt tất niên, tổng kết năm cũ… nhưng không lập kế hoạch thì tổng kết cái gì! Vì thế chúng ta nên tìm hiểu đôi chút về kế hoạch của Thiên Chúa và của Đức Giêsu là gì và mang những đặc tính nào.

2. Kế hoạch của Thiên Chúa và kế hoạch của Đức Giêsu

Giáo Hội đã giới thiệu cho chúng ta về “Kế hoạch tổng thể” của Thiên Chúa. Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo của Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình và cuốn Docat, mà Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tặng các bạn trẻ năm 2016, ngay trong chương đầu tiên, đã nói đến “kế hoạch tổng thể của Thiên Chúa là tình yêu”[77]. Thiên Chúa yêu thương toàn thể vũ trụ và loài người, nên muốn cứu độ tất cả và Ngài làm mọi việc để thực hiện kế hoạch ấy.

Các bài Kinh Thánh mời gọi chúng ta nhìn vào kế hoạch của Thiên Chúa để tìm ra kế hoạch cho đời mình. Người Do Thái, trong Bài đọc I (x. Nkm 8,2-10), đã không tuân theo kế hoạch của Chúa, không giữ luật Ngài nên họ bị lưu đầy. Nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương họ, đưa họ về lại miền đất Israel. Khi mở sách luật ra đọc và nhận thấy mình chẳng tuân theo luật Chúa, họ khóc lóc, thống hối và quyết tâm trở về với lề luật. Tư tế Esdra đã nhắc nhở rằng: “Anh em đừng khóc lóc, nhưng hãy vui mừng vì niềm vui của Thiên Chúa là thành trì bảo vệ anh em”.

Thánh Phaolô trong Bài đọc II (x. 1Cr 12,12-30) cũng nhắc nhở: Chúng ta là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Đức Giêsu. Mỗi người có công việc khác nhau giống như thân thể có mắt, tai, tay, chân với công việc của riêng mình. Nhưng tất cả đều phục vụ cho sự sống toàn thân, tất cả đều cố gắng làm theo một kế hoạch chung, dù rằng công việc mỗi người khác nhau.

Bài Tin Mừng (x. Lc 4,14-21) giới thiệu cho chúng ta kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được giao phó cho Chúa Giêsu. Người mở sách tiên tri Isaia và gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Chúa Giêsu thực hiện kế hoạch tổng thể của Chúa Cha, qua những hành động cụ thể đúng như những lời báo trước nên đã mang lại ơn cứu độ cho muôn loài và mọi người.

Kế hoạch của Chúa Giêsu cũng chính là kế hoạch của mỗi người chúng ta: thực hiện công trình yêu thương cứu độ của Cha Trên Trời cho mọi người mọi vật quanh mình. Nếu ta tham gia vào kế hoạch này bằng những hành động cụ thể, ta sẽ được chia sẻ hạnh phúc vĩnh viễn với Chúa trong từng ngày sống, cũng như được tràn đầy ân sủng của Thánh Thần để hoàn thành kế hoạch cứu độ đó. Tuy nhiên muốn hoàn thành được kế hoạch tổng thể, kế hoạch của ta cần có những yếu tố nào?

3. Những đặc tính trong kế hoạch của Chúa Giêsu và của chúng ta

Để kế hoạch đời sống của ta thật sự mang lại những hiệu quả tốt đẹp, ta cần chú ý đến mấy điểm sau đây.

3.1. Kế hoạch của ta phải hoà nhập với kế hoạch của Cha Trên Trời và được Chúa Thánh Thần xác nhận.

Chúa Giêsu không làm gì ngoài ý của Cha Trên Trời và chúng ta cũng vậy, vì chúng ta là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ không làm gì ngoài phần kế hoạch mà đã Chúa giao phó. Đặc tính này được diễn tả trong câu:“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi”. Khi hành động, Chúa Giêsu không làm gì cho mình, không làm theo những ước vọng riêng tư hay tính toán của mình, nhưng tất cả đều làm cho Chúa Cha được vinh danh. Thánh Thần đã xác nhận hành động của Người và Ngài cũng xác nhận kế hoạch của ta bằng những ân sủng để giúp ta thành công trong mọi việc. 

Chúng ta có thể đi chơi, du lịch, giải trí trong dịp nghỉ Tết, nhưng chúng ta  thử hỏi xem những công việc này có nằm trong kế hoạch của Chúa hay không. Ta có thể đi hành hương, hoạt động bác ái nhưng cũng cần tìm hiểu, qua lời cầu nguyện và suy nghĩ, xem Chúa có muốn ta làm hay không. Ta có thể học thêm môn này, nghề nọ, có thể quyết tâm lập gia đình năm nay, có con năm tới… nhưng vẫn phải tìm hiểu kế hoạch đời mình có gắn kết với kế hoạch của Chúa Giêsu và của Cha Trên Trời không.

3.2. Kế hoạch gồm những hành động tích cực

Yếu tố tiếp theo: tất cả phải là những hành động tích cực.  Trong kế hoạch của Chúa Giêsu không có những quyết tâm tiêu cực, thí dụ như: “Tôi không rao giảng Tin Mừng cho người giàu có, tôi không quan tâm đến những con người đang sáng mắt…”. Đời sống có rất nhiều điều tiêu cực với những bất toàn, nếu ta cứ nhớ mãi đến quá khứ tội lỗi, nhắc mãi đến những điểm tiêu cực của mình và của người khác, ta sẽ tiêu tốn rất nhiều sức lực, thời giờ, ân sủng mà chẳng thay đổi được gì. Vì thế, ta hãy tích cực hành động vì “thà bật lên một que diêm với ánh sáng loé lên trong nháy mắt còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”.

3.3. Kế hoạch mang tính hiện thực

Từ “hôm nay đã ứng nghiệm” như muốn mời gọi ta chú ý đến tính cách hiện thực của kế hoạch. Đức Giêsu đã thực hiện tất cả các hành động trong kế hoạch của Người: rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật, tha thứ tội lỗi, xua trừ ma quỷ để giải phóng cho kẻ bị chúng kiềm chế, cho kẻ chết sống lại và ban Thánh Thần cho những ai gắn bó với Người.  Những hành động đó rất cụ thể, thiết thực cho những người trong thời của Người để diễn tả tình yêu cứu độ của Chúa Cha.

Rất nhiều kế hoạch của chúng ta mang tính viển vông, thiếu thực tế, theo những tính toán xa vời, đầy tham vọng của chúng ta. Chúng ta không để ý đến khả năng hiện thực của chính mình và hoàn cảnh cụ thể của gia đình, cộng đồng, xã hội. Có người đặt kế hoạch trở thành bác sĩ nhưng không thể hoàn thành vì khả năng tâm trí bị giới hạn, gia đình không đủ điều kiện. Có những tập thể quyết tâm xây nhà thờ, xây tượng đài… trong khi quanh họ biết bao người bệnh tật, khốn khổ, nghèo đói, thất học, bị ma quỷ kiềm chế, bị dục vọng lôi kéo đang cần cứu giúp. Chúng ta chỉ lo thực hiện kế hoạch của cá nhân, của tổ chức, dòng tu, giáo phận, giáo xứ mà quên đi kế hoạch của Thiên Chúa.

Lời kết

Nhân dịp Năm Mới, ta hãy nhìn lại kế hoạch đời mình để xem có phù hợp với kế hoạch của Chúa Cha và của Đức Kitô hay không. Chúa Thánh Thần sẽ đổ muôn vàn ơn phúc để ta hoàn thành kế hoạch cũng như cảm nghiệm được niềm vui, bình an và ơn cứu độ. Chúng tôi cũng đã giới thiệu cách làm kế hoạch sống trong tập “Bạn Là Lời Cứu độ” bắt đầu từ chương trình sống mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi năm[78]. Anh chị em có thể tra cứu và chuẩn bị cho kế hoạch của mình.

Câu hỏi gợi ý

1. Kế hoạch của Thiên Chúa là gì? Kế hoạch của Chúa Giêsu là gì?

2. Nếu bạn đã lập kế hoạch cho năm 2019, bạn hãy tìm hiểu xem nó có những đặc tính cần thiết như Đức Giêsu dạy ta không.

3. Nếu chưa, bạn hãy dành ra ít giờ làm theo sự hướng dẫn để đời sống bạn thật sự hiệu quả, đem lại niềm vui, bình an và ơn cứu độ cho bạn và muôn loài.

 

Bài 14

Sống đẹp từng giây phút trong đời

Lời mở

Sống chết là tình trạng bình thường của mọi sinh vật  trên trái đất. Tuy nhiên, con người với tính thần của mình, đã làm cho sự sống và cái chết có một ý nghĩa cao đẹp và một giá trị tuyệt vời. Có nhiều người dù đang sống, mà không biết sống là gì và sống để làm gì? Họ sống đau khổ, tủi nhục, thấp hèn, sống mà không bằng chết, khiến nhà ái quốc Phan Bội Châu (1867-1940) phải nhắn nhủ: “Sống mà như thế đừng nên sống. Sống tủi làm chi đứng chật trời!”. Thật ra, ai cũng muốn sống hạnh phúc, cao thượng và phát huy những phẩm chất đặc biệt của con người, nhưng làm sao để sống được như thế mới là điều đáng chúng ta quan tâm.

1. Sống là gì?

Dù sự sống đã có mặt trên trái đất này cách đây một tỉ năm, khởi đầu từ những đơn bào, đa bào, đến thực vật, động vật và con người biết suy tư với hộp sọ phát triển có thể tích 1200-2000cm3, nhiều người vẫn chưa hiểu sống là gì[79]. Người ta thường nghĩ theo giả thuyết tiến hoá của Darwin (1809-1882): sự sống ngẫu nhiên mà có chứ không bắt nguồn đâu cả, dù khoa học luôn quả quyết có hậu quả thì phải có nguyên nhân!

Tìm trong bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam (TĐBKVN), bộ từ điển có giá trị nhất hiện nay, chúng ta không tìm được định nghĩa của từ “sống”[80].  Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, “sống là tồn tại ở hình thái có trao đổi chất với môi trường bên ngoài, có sinh sản, lớn lên và chết[81]. Những lời giải thích này chỉ mô tả một số chức năng chung của các vật thể sống chứ không định nghĩa được sự sống.

Thật ra, sự sống là một cái gì hiển nhiên, không cần minh chứng vì nó đang ở trong ta, trong muôn loài sống động quanh ta. Nó lạ lùng, quý báu, thiêng liêng nhưng lại có vẻ mong manh, tạm thời, phi lý và dễ dàng biến mất nếu người ta không tìm về được nguồn của sự sống. Vì thế, sự sống là một mầu nhiệm cần khám phá không ngừng[82].

2. Những thái độ sống khác nhau

Chính vì không biết sống là gì nên người ta có những thái độ sống rất khác nhau. Có người thấy sự sống có vẻ như rất mong manh, tạm thời và phi lý. Chỉ cần một cơn gió nóng thổi qua, bông hoa xinh đẹp kia cũng héo tàn. Chỉ cần một hành động như thải nước độc ra đại dương của Nhà máy Formosa ở Hà Tĩnh năm 2016, hàng triệu tôm cá bị giết chết. Chỉ cần một vài thay đổi trong cơ thể, con người trẻ trung, tài giỏi, xinh đẹp kia cũng biến mất sau một cơn nhồi máu cơ tim hay tai biến mạch máu não. Đó là mặt tối của sự sống nên nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã tự hỏi: “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi để một mai tôi về làm cát bụi?[83].

Vì không nhận ra được những giá trị tích cực của sự sống, nên người ta hững hờ với nó, chẳng lo cho mình, chẳng giúp cho đời. Họ phung phí những năm tháng sống để thoả mãn các đòi hỏi của bản năng và dục vọng trong những cuộc vui thâu đêm. Họ tàn phá sự sống của mình bằng đủ thứ nghiện ngập và của người bằng những hành động ác đức như tham nhũng, bất công; buôn bán hàng độc hại; nói lời bất hoà, chia rẽ; bạo hành, gây chiến, phá thai…Họ nghĩ rằng chẳng ai nhìn thấy những tội ác xúc phạm đến sự sống của mình. Nhưng thật ra sự sống nào cũng mang tính vĩnh hằng, nên bất cứ hành động nào, dù tốt hay xấu, cũng đều ghi lại những dấu ấn trong sáng hay bẩn thỉu của nó trên bản chất của con người, khiến họ phải tẩy xoá sạch mọi vết bẩn nếu muốn hạnh phúc trọn vẹn trong cõi vĩnh hằng.

Trái lại, không ít người nhận thức được sự sống lạ lùng, quý báu, thiêng liêng. Dù chỉ là một ngọn cỏ, một con bướm, nhưng cấu trúc kỳ diệu của hàng tỉ tế bào chuyển động không ngừng trong chúng đã làm kinh ngạc bao nhà bác học. Dù chỉ cần thêm một vài giây phút sống, nhưng người ta vẫn sẵn sàng đánh đổi mọi thứ cho người thân được sống, để nghe được lời tha thứ yêu thương, xem được nụ cười mãn nguyện của người thân. Một nụ cười trong sáng kéo dài chỉ một vài giây, nhưng cũng có sức lan toả từ người này sang người khác và tồn tại lâu dài trong suốt dòng lịch sử con người. Một câu nói yêu thương sẽ tồn tại mãi mãi. Vì thế, ta được mời gọi sống đẹp từng giây phút trong đời!

Sự sống thiêng liêng vì nó được nối kết với giá trị tinh thần mà không máy móc khoa học kỹ thuật nào có thể cân đo đong đếm được. Một nụ hôn đầu đời khiến người ta nhớ mãi về tình yêu. Một dấu bước chân của Neil Amstrong đặt lên mặt trăng ngày 20/7/1969 ghi nhớ mãi sự tiến bộ của loài người trong việc chinh phục không gian. Một nụ cười rạng rỡ ngày cưới làm cho lòng người chứa chan hạnh phúc. Tình yêu, tiến bộ, hạnh phúc là những thứ thuộc về tinh thần, không lệ thuộc vào vật chất, không gian, thời gian, nên chúng tồn tại mãi mãi với sự sống. Đó là tính cách thiêng liêng, vĩnh hằng của sự sống mà nhiều khi ta không biết đến hay chẳng quan tâm.

3. Sống là hiệp thông và liên kết

Xét về lĩnh vực sự sống, có thể nói muôn loài muôn vật đều liên kết và hiệp thông với nhau như các thành phần trong một thân thể nhiệm mầu.

Từng giây phút sống là ta nhận được khí Oxy từ những cây xanh toả ra, là ta ăn bát cơm, miếng thịt, cọng rau rút ra từ lòng đất nước. Vật chất cũng như nhiều loài thực vật, động vật trở thành máu xương của ta. Rồi khí Carbonic và cặn bã ta thải ra, qua sự chuyển hoá của vũ trụ, lại trở thành xương thịt cho muôn loài sống động quanh ta. Trong đời sống vài chục năm, ta thở hàng triệu lít Oxy và uống hàng trăm ngàn lít nước. Tất cả đều chuyển hoá và hoà trộn vào muôn vật muôn loài.

Vì thế, chúng ta đều là anh chị em ruột thịt của nhau xét về phương diện khoa học, chưa cần nói đến khía cạnh tôn giáo tâm linh. Nếu phân tích các gen trong nhiễm sắc thể, ta là con của ông bà này hay ông bà kia để đối xử với nhau theo huyết thống. Nhưng phân tích sâu xa hơn theo khía cạnh sự sống, ta là anh em ruột của mọi người và muôn loài trong vũ trụ này.

Vì thế, ta phải cảm thấy tự hào và hạnh phúc vì trong thân thể mỗi người đang có những nguyên tử, phân tử Carbon, Hydro, Oxy, Nitơ, Sắt, Đồng, Chì, Kẽm… đã từng ở trong thân thể của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, nên chúng ta là anh chị em ruột của nhau về mặt tâm linh. Đó cũng là ý nghĩa cần hiểu khi Giáo hội Công giáo luôn dùng từ anh chị em ruột để nói về những người thân của Chúa Giêsu, trong đó có chúng ta[84], để chào nhau trong thánh lễ.

Hơn nữa, nếu ta không hiểu sự sống con người là gì, ta cũng không thể nào biết khát vọng sống của mình có thể vươn cao và bay xa đến đâu.

4. Vươn tới sự sống dồi dào và sung mãn

Nhìn vào vạn vật quanh ta, ngoài những vật chất bất động không có sự sống như các chất hoá học, người ta thường phân biệt ba dạng sống: sự sống của loài thực vật, động vật và của con người. Chỉ con người mới tổng hợp được trong mình các dạng sống khác nhau để đưa sự sống vươn xa tới vô biên và phát triển đến vô cùng.

Trong cơ thể con người, tế bào là đơn vị sống nhỏ nhất. Có khoảng 75 ngàn tỉ tế bào. Chúng được tạo nên từ các phân tử hoá học. Có hơn 20 nguyên tố hoá học hiện diện trong cơ thể, trong đó chỉ 4 nguyên tố Oxy, Carbon, Hydro và Nitơ đã chiếm khoảng 96% khối lượng cơ thể[85]. Nghiên cứu kỹ hơn về sự sống trong cơ thể con người, chúng ta sẽ thấy sự sống con người đã được nâng lên một bậc sống mới, kỳ diệu và phi thường hơn hẳn loài thực vật và động vật. Các con tinh tinh có thể bắt ve bọ cho nhau, có thể học sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu, nhưng chỉ có con người mới biết suy tư (homo sapiens), ước mơ và hy vọng. Con người có thể ăn uống, hành động, vui chơi như loài động vật, và nhiều người đang sống theo đó nên thấy cuộc sống là phi lý, tạm thời, vô nghĩa. Nhưng khi con người hành động kèm theo suy tư và cảm xúc thì họ không còn chỉ là “con” nhưng đã là “người”. Vì thế mà các triết gia Hy Lạp như Plato (427-347TCN), Socrates (470-399 TCN), Aristotle (384-322 TCN) định nghĩa: “Con người là con vật biết suy tư” (Homo est animal rationabile).

Con người chỉ được nâng lên một bậc sống mới nhờ “tinh thần” khi con người biết vượt qua chính mình, vượt qua vật chất, không gian và thời gian để đưa những suy tư và cảm xúc tự nhiên của mình vào một tầng cao mới, một thế giới mới: thế giới của tinh thần với các giá trị phi thường, siêu việt.

5. Sự sống tinh thần

Nhờ khả năng biết suy tư, con người nhận biết có một sự sống mới mà mình có thể tham dự: sự sống tinh thần. Sự sống này bao gồm những giá trị tích cực mà con người có thể cảm nhận được ngay trong đời sống tạm bợ, nhất thời, phi lý của mình: đó là giá trị của tình yêu, tự do, niềm vui, hạnh phúc, hoà bình, cái đúng, cái tốt, cái đẹp… Con người muốn sống mãi, trẻ mãi, đẹp mãi, tốt mãi, vui sướng trọn vẹn, hạnh phúc sung mãn, tự do hoàn toàn, hoàn thiện vô biên. Khát vọng này đưa con người vượt ra ngoài vũ trụ vật chất, đang bị lệ thuộc vào thời gian và không gian ba chiều, để bước vào thế giới linh thiêng chỉ dành cho loài có tinh thần. Đó cũng là khát vọng trở thành thần linh, kết hợp với Thiên Chúa mà tôn giáo gọi là “được giải thoát”, “cứu độ”, được “vào thiên đàng”, “vào Niết Bàn”, …

Trong suốt dòng lịch sử, con người đã thể hiện khát vọng kéo dài sự sống bằng cách tìm ăn các củ nhân sâm ngàn năm, tạo ra các mỹ phẩm để làm cho mình đẹp hơn, trẻ hơn, thay đổi gen để kéo dài tuổi thọ… Thất vọng về các giải pháp vật chất, con người tìm đến tôn giáo vì hy vọng tìm ra các giải pháp tinh thần thoả mãn được khát vọng của mình. Quả thật, một số người đã tiếp xúc được với thần linh, đã tham dự vào đời sống tinh thần và chứng minh cho những người khác thực tại của đời sống này. Vì thế, hầu hết 7 tỉ con người đang sống trên trái đất đang theo một tôn giáo nào đó. Đây chỉ là một dấu hiệu nhắc nhở ta quan tâm đến sự sống tinh thần.

Như thế, tôn giáo không phải là thứ thuốc phiện ru ngủ quần chúng như người Cộng sản lên án, cũng chẳng phải là thứ thuốc mê làm tha hoá con người như người Hiện sinh Vô thần đã nêu ra. Tôn giáo là một trong những phương tiện đưa con người vào đời sống tinh thần, khi cổ vũ nền văn hoá sự sống, mà chỉ con người mới có thể xây dựng để vũ trụ đạt tới cùng đích của nó trên con đường tiến hoá. Vì thế phải trân trọng tôn giáo vì đó là hình thái cao nhất của nền văn hoá sự sống khi cổ vũ một sự sống tinh thần hoàn hảo và vô biên. Tôn giáo sẽ giúp con người được tự do hoàn toàn và phát triển trọn vẹn khả năng tinh thần của mình. Lúc đó ta mới thật sự là người có thể xác và tinh thần, được tạo dựng theo hình ảnh của Đấng là Cội Nguồn Sự Sống, với tinh thần luôn mở ra cho siêu việt và  hướng tới vô biên[86].

Lời kết

Trong hơn 7 tỉ người sống trên trái đất, có hơn 2,2 tỉ người hiện nay đang đi theo Đức Giêsu Kitô, đang cố gắng xây dựng nền văn hoá sự sống khi giới thiệu Đức Giêsu là nguồn sống bất diệt. Chính Người đã xác định: “Tôi là Sự sống” (Ga 14,6), “Ai tin vào tôi sẽ được sống đời đời” (Ga 11,25-26). Người đã chứng minh điều này bằng nhiều phép lạ cho kẻ chết sống lại (x. Lc 7,11-17; Mc 5,21-43: Ga 11,1-44). Chính Đức Giêsu đã tự nguyện chết và sống lại. Người cũng đã cho những ai tin vào Người quyền năng làm cho người chết sống lại (x. Cv 9,36-41; 20,9-12) để chứng tỏ con người đã thật sự được tham dự vào sự sống tinh thần. Chỉ có Người mới có thể giúp ta sống đẹp từng giây phút trong đời như Người.

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn đang sống như thế nào và nhận ra giá trị nào của sự sống?

2. Bạn làm gì để chứng tỏ sự sống của bạn là một sự hiệp thông và liên đới?

3. Bạn nghĩ mình cần phải làm gì nếu bạn muốn sống mãi, trẻ đẹp mãi và phát huy trọn vẹn tài năng tinh thần?

 

Bài 15

Đi tìm nguồn đẹp

Trong bài “Sống đẹp từng giây phút trong đời” (Bài 10), nhiều người chúng ta muốn sống tốt đẹp mãi như Đức Giêsu Kitô. Muốn thế chúng ta phải xác định được nguồn chân thiện mỹ là gì, phải tìm nguồn ấy ở đâu và làm thế nào biến đổi mình thành đẹp trong đời sống.

1. Xác dịnh nguồn chân thiện mỹ

Trong suốt dòng lịch sử nhân loại, con người đi tìm cái đẹp, cảm nhận được cái đẹp trong từng cánh hoa, ngọn cỏ; từng ánh mắt, nụ cười; từng ý nghĩ, lời nói; từng cử chỉ, hành động của mọi người và vạn vật quanh mình. Ai ai cũng có thể thấy cái đẹp, muốn cái đẹp, nhưng lại rất khó để có một khái niệm rõ ràng và định nghĩa chính xác về cái đẹp. Vậy đẹp là gì?

Cái đẹp là “cái có hình thức hoặc phẩm chất đặc biệt làm cho người ta thích nhìn ngắm hoặc kính nể, là cái có sự hài hoà, tương xứng”[87]. Như thế, “cái đẹp tồn tại trong thiên nhiên như trời, biển, núi sông, chim muông, hoa lá hay trong xã hội, được thể hiện qua những quan hệ giữa người với người, những hành vi đạo đức, những thái độ ứng xử. Cái đẹp còn tồn tại qua các hình tượng thẩm mỹ trong các tác phẩm nghệ thuật”[88]. Cái đẹp hay “mỹ”, theo giáo huấn Công giáo, “là cái làm vui lòng người nhìn ngắm. Bất cứ hữu thể nào, xét như là hữu thể, đều đẹp theo mức nó đạt tới hoặc gần đạt tới sự toàn hảo của bản tính nó. Trong các sự vật hoặc trong các hành động được coi là đẹp, cái đẹp có nền tảng nơi thế quân bình hoặc sự cân xứng của các thành phần cùng với một mức trong sáng được nhận biết. Là vẻ rực rỡ của cái Chân (đúng), cái Đẹp (mỹ) phần nào thực hiện sự tổng hợp của Chân và Thiện, người ta coi nó là một sự thiện mà chỉ hưởng được khi nhận thức và hội nhập nó”[89].

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Cái đẹp là chìa khoá mở cửa mầu nhiệm và là tiếng gọi mời ta vươn lên cao. Đó cũng là tiếng nói mời gọi ta cảm nếm cuộc sống và mơ về tương lai. Chính vì thế, cái đẹp của thụ tạo không bao giờ có thể làm ta cảm thấy thoả mãn hoàn toàn. Nó khơi dậy nỗi nhớ nhung thầm kín về Thiên Chúa, một sự thật mà chỉ có người mê say cái đẹp như thánh Augustinô mới diễn tả một cách tuyệt vời như sau: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới! Con yêu Chúa quá muộn màng[90].

Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng: cái đẹp là một trong 3 thuộc tính cơ bản của hữu thể: đúng-tốt-đẹp, mà chúng ta vẫn gọi là chân-thiện-mỹ, vì bất cứ một hữu thể nào có thật thì đều tốt đẹp. Dù người ta còn tranh luận nhiều về mối quan hệ hỗ tương của chân thiện mỹ trong hữu thể, nhưng ta có thể nói rằng: “Đẹp là hình thức bên ngoài của cái tốt, cũng như tốt là điều kiện siêu hình của cái đẹp và cả hai cái tốt và đẹp đều phải nằm trong cái thật của hữu thể” [91].

Thiếu một trong 3 yếu tố này thì bất cứ một hữu thể nào cũng không được coi là đẹp và nếu có ai cho đó là đẹp thì cái đẹp ấy sẽ gây nguy hại cho người đón nhận nó cũng như cho các hữu thể khác. Điều này có thể cho ta hiểu tại sao trong việc thẩm định giá trị đẹp của một hoa hậu, người ta không chấp nhận những cái giả (từ bằng cấp giả, trình độ học vấn  giả cho đến lông mày, lông mi giả, tóc giả, ngực giả…) hoặc những cái không tốt như người đó như nghiện rượu, nghiện ma tuý, có con ngoại hôn…

2. Tìm nguồn chân thiện mỹ ở đâu?

2.1. Cái đẹp qua góc nhìn của một vài tôn giáo

Trong hàng chục thế kỷ bị người Trung Quốc đô hộ, sống nghèo khổ, người Việt chỉ mong sao ăn no, mặc ấm chứ chưa nghĩ đến ăn ngon mặc đẹp. Từ thể kỷ X, sau khi giành được độc lập, người Việt mới có cơ hội mở ra với văn hoá Trung Quốc và từ thế kỷ XVI với văn hoá phương Tây để đón nhận cái đẹp trong nghệ thuật và mỹ thuật nước ngoài.

Trong dòng lịch sử dân tộc, người Việt chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các ý thức hệ hay các tôn giáo đã được du nhập vào Việt Nam nên ít người quan tâm đến cái đẹp. Theo quan điểm Phật giáo, vẻ đẹp của con người và của thiên nhiên vạn vật thì vô thường, tạm bợ vì chúng luôn thay đổi như thời tiết sáng nắng, chiều mưa. Bám vào những vẻ đẹp vô thường đó sẽ làm cho con người bị trầm luân khổ ải. Con người chỉ nên đi tìm cái tốt trong đạo chứ không nên đi tìm cái đẹp ở bất cứ nơi đâu.

Lão giáo chú ý nhiều đến cái đẹp của vạn vật nên gắn bó nhiều với thiên nhiên. Người ta học được bài học sống an nhiên tự tại như trời đất, bất kể những thăng trầm của cuộc đời, của vạn vật. Lão giáo đi tìm cái hồn của vạn vật và nhận ra mỗi loài trong vũ trụ đều có thần chi phối cái tốt, cái thật, cái đẹp của muôn vật muôn loài, từ đó phát sinh ra việc tôn thờ những vị thần cai quản chúng vì “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”.

Khổng giáo là ý thức hệ mạnh nhất chi phối tư tưởng các nhà trí thức trong xã hội Việt Nam, bắt đầu từ các triều đại Lý, Trần, nhất là khi chiếm địa vị độc tôn từ triều Lê (1428-1788) đến triều Nguyễn (1802-1945). Khổng giáo là một học thuyết đạo đức xã hội chính trị hơn là một tôn giáo vì không có lễ nghi, tổ chức, kinh nguyện, không tin có sự hiện diện của thần thánh hay ma quỷ dù có nhắc đến “Thiên” như một nguyên lý tối cao[92]. Khổng giáo quan tâm đến đời sống xã hội với các mối tương quan của con người, nhưng theo ý nghĩa của cái tốt, cái đúng, chứ không theo cái đẹp, vì chỉ muốn tổ chức xã hội được quy củ theo đúng tam cương, ngũ luân, ngũ thường. Cái đẹp của xã hội là theo đúng kỷ cương phép nước, cái đẹp của con người là sống theo đúng lễ nghĩa gia phong, chứ không phải là những nét đẹp trên hình hài, thể xác (Tốt gỗ hơn tốt nước sơn; Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người). Như thế, cái đẹp được hoà nhập vào cái đúng, cái tốt, chứ không phân biệt rõ ràng, tách biệt nhau[93].

2.2. Cái đẹp qua góc nhìn thần học Công giáo

Nền mỹ học thật sự nói lên mối quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực và rút ra được những quy luật chi phối những mối quan hệ đó chỉ xuất hiện với Công giáo cách đây khoảng 2.000 năm.

Trước đó, Do Thái giáo, với những cuốn kinh trong bộ Thánh Kinh Cựu Ước, cũng đã nhận ra cái đẹp bắt nguồn từ Đức Chúa Giavê. Ngài là nguồn của chân thiện mỹ (x. Kn 13,5). Ngài dựng nên toàn thể vũ trụ rất tốt đẹp và tạo thành con người tốt đẹp hơn cả theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài (x. St 1-2). “Chính Đấng sáng tạo mọi loài là tác giả của muôn vẻ đẹp… Vì các thụ tạo càng lớn lao, đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng tạo thành” (Kn 13,3-5). Nhưng tội lỗi của con người đã huỷ hoại tất cả và làm cho con người phải tàn tạ, xấu xí, chết chóc, cũng như vũ trụ phải lâm vào cảnh hư ảo, tan nát, khổ nhục (x. Rm 8,20-23). Tất cả đều mong đợi ngày được giải thoát, được tự do và vinh quang, được sống mãi như Thiên Chúa. Vì thế, toàn thể lịch sử Do Thái giáo hướng về Đấng Mêsia, Đấng Kitô, Đấng Cứu thế.

Kitô giáo đã chỉ rõ Đấng ấy là Đức Giêsu Nazareth. Người là Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành con người để đưa thần tính vĩnh hằng, đưa chân thiện mỹ của Thiên Chúa vào trong vũ trụ vật chất, nên từ nay tất cả vạn vật cũng như  từng con người đều phản ánh cái đẹp vĩnh hằng của Thiên Chúa và có giá trị vô biên. Con người không phải chỉ khám phá ra Đấng Toàn Mỹ tạo nên vẻ đẹp của vạn vật[94], từ đó suy ra Thiên Chúa là cái đẹp tuyệt đối[95], nhưng còn nhận ra “cái đẹp là thuộc tính phổ quát của mọi hữu thể” (omne ens est pulchrum). Đó là luận đề căn bản của triết học Công giáo.

“Người tín hữu Công giáo không phải chỉ khám phá vẻ đẹp của vũ trụ, của con người, nhưng họ cần khám phá ra vẻ đẹp của đức tin, vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô”[96]. Chính trong cuộc gặp gỡ này, đôi mắt tinh thần của họ sẽ được Người chữa lành để nhận ra chính Người đã làm cho mọi người, mọi vật trở nên tốt đẹp vô cùng nhờ cuộc phục sinh của Người.

Từ khởi điểm “Thiên Chúa trở thành người để đưa chân thiện mỹ vào trong con người và vũ trụ vật chất” đó, Công giáo đã “rửa tội”, nghĩa là “công nhận” các nền nghệ thuật và mỹ thuật của mọi dân tộc, khởi đầu là nghệ thuật, mỹ thuật của Hy Lạp và Rôma. Nhiều công trình kiến trúc được biển đổi thành nơi thờ tự, nhiều đền thờ, thánh đường, tu viện được xây dựng ở các nước châu Âu ngay từ thế kỷ IV và còn tồn tại đến ngày nay. Nhiều tượng đài, điêu khắc, hoạ phẩm nổi tiếng của các thiên tài như Michelangelo (1475-1546), Leonardo da Vinci (1452-1519), Fra Angelico (1395-1455), Raphael (1483-1520), Titian (1485-1576), Guido Reni (1575-1642), Rembrandt  (1606-1669), G. Battista Tiepolo (1696-1770), Antonio Canova (1757-1822), Pablo Picasso (1881-1973), Vincent Van Gogh (1853-1890), Edouard Manet (1832-1883),… đã được nền nghệ thuật và mỹ thuật Công giáo đón nhận vì chúng phản ánh cái đúng, cái tốt, cái đẹp của Thiên Chúa, con người và vạn vật.

Nghệ thuật từ đó mang tính chất thánh thiêng: “Khi nhờ hình thức thích hợp, đáp ứng với ơn gọi riêng của nó, trong đức tin và sự tôn thờ, nghệ thuật thánh gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm siêu việt của Thiên Chúa, vẻ đẹp siêu phàm vô hình của chân lý và của tình yêu, đã xuất hiện nơi Đức Giêsu Kitô[97].

“Mỹ thuật, chủ yếu là nghệ thuật thánh, tự bản chất nhằm diễn tả vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, được cảm nghiệm một cách nào đó qua những tác phẩm của con người. Nghệ thuật này càng làm cho Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn, một khi những tác phẩm đó không nhằm mục đích nào khác, ngoài sự góp phần tối đa để quy hướng tâm trí con người sốt sắng về cùng Thiên Chúa”[98]. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thư gửi các nghệ sĩ, đã nhắc nhở: “Thế giới chúng ta đang sống cần đến cái đẹp để không rơi vào thất vọng. Cái đẹp cũng như sự thật, đem lại niềm vui cho tâm hồn con người và là hoa trái quý giá có thể chịu được sự sói mòn của thời gian, nối kết được các thế hệ và làm cho họ hợp nhất trong cùng một tâm tình ngưỡng mộ[99].

3. Diễn tả cái đẹp trong đời sống

Sau khi biết Thiên Chúa là nguồn của chân thiện mỹ và Đức Giêsu Kitô là phản ánh rõ ràng chân thiện mỹ này thì người Công giáo chúng ta có sứ mạng và trách nhiệm diễn tả “cái đúng, cái tốt, cái đẹp” đó trong đời sống hằng ngày “để mọi người trông thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh  Cha anh em ở trên trời” (Mt, 5,16) và nhờ đó họ nhận được sự cứu độ là niềm vui, bình an, hạnh phúc và sự sống vĩnh hằng.

Tuy nhiên, trong nhiều thế kỷ, người Công giáo ít quan tâm đến cái đẹp thể xác vì sợ rơi vào việc tôn sùng cái đẹp thân thể của người Hy Lạp và người Roma. Họ hầu như chỉ chú tâm đến cái đẹp tinh thần với những tài năng, đức tính và ân huệ Chúa ban. Trên con đường tìm về với Thiên Chúa là nguồn chân-thiện-mỹ, có những giai đoạn người tín hữu Công giáo đã bỏ quên cả con người để dồn tất cả danh dự, vinh quang cho Thiên Chúa. Có những thời kỳ người tín hữu Công giáo bị ảnh hưởng của phái Khắc kỷ, thuyết Nhị Nguyên nên hạ thấp giá trị thân xác con người, coi nó là nguồn của tội ác để chiều theo dục vọng. Người ta đã phải vẽ thêm các lá cây che kín những phần thân thể nhạy cảm trong các hoạ phẩm, tượng đài[100]. Công đồng Vaticanô II đã sửa sai điều này khi xác định: “con người là một chủ vị duy nhất có thân xác và linh hồn…Vì thế, không được khinh miệt đời sống thể xác con người, trái lại phải coi thân xác là tốt lành và đáng tôn trọng vì được Thiên Chúa tạo thành và sẽ được sống lại trong ngày sau hết”[101]

Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thư gửi các nghệ sĩ, cũng đã nhắc đến câu nói của nhà văn Dostoevsky (1821-1881): “Cái đẹp sẽ cứu độ thế giới[102]. Cái đẹp này không phải chỉ là lý tưởng của Thiên Chúa giáo như giáo sư Lê Ngọc Trà đã hiểu[103], sẽ giúp nhân dân Nga thoát cảnh đau khổ và bế tắc của xã hội vào thế kỷ XIX. Cái đẹp đó được hiểu là chính Thiên Chúa, như nguồn chân thiện mỹ và là chính Đức Giêsu đầy quyền năng để đưa toàn thể nhân loại và vũ trụ đi vào con đường tình yêu và giải thoát thật sự.

Đứng trước sự suy đồi của nền luân lý vì con người loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, người Công giáo có sứ mạng phải diễn tả cái đẹp trong đời sống để cứu độ thế giới, cứu độ dân tộc mình. “Đạo đức, lối sống, nhân cách, văn hoá của người Việt Nam chúng ta nhiều nơi, nhiều lúc đang làm xấu hình ảnh đất nước, con người, văn hoá Việt Nam” [104]. Cái dối trá, gian ác, xấu xí, rõ ràng cứ diễn ra trước mắt mọi người trong mọi lĩnh vực xã hội, trên các phương tiện truyền thông, trong chính quyền, thậm chí trong cả các lĩnh vực tôn giáo tâm linh, chứng tỏ nhiều người Việt Nam đang vô cảm, hờ hững, lạnh lùng với chân thiện mỹ.

Nếu không có những hành động kịp thời để diệt trừ cái sai, cái ác, cái xấu, và thúc đẩy cái đúng, cái tốt, cái đẹp phát triển trong đời sống cộng đồng xã hội, thì sợ rằng một ngày nào đó dân tộc thân yêu và hào hùng này sẽ không tồn tại. Đó là lời cảnh báo tha thiết của chúng tôi trước nguy cơ và thách đố đối với cái đẹp trong xã hội hiện nay.

Để hoàn thành sứ mạng này, chúng ta không phải chỉ cầu nguyện, ăn chay và làm các việc bác ái. Chúng ta cần phải học hỏi chân thiện mỹ thật sự là gì, rồi diễn tả ra như thế nào thành ý tưởng, lời nói, cử chỉ, hành động trong đời sống cá nhân, gia đình, xã hội. Việc này cần phải nhờ đến các uỷ ban của Hội đồng Giám mục Việt Nam về nghệ thuật thánh, giáo lý đức tin, phụng vụ, gia đình, giới trẻ, giáo dân…. nghiên cứu các bài học và giảng dạy, rồi phổ biến trong các tầng lớp giáo dân và hội đoàn Công giáo. Giáo hội Công giáo Hàn quốc đã làm được điều này từ 20 năm nay và đã biến đổi dân tộc Hàn để từ một đất nước nghèo khổ, lạc hậu trở thành một trong 10 nước phát triển hàng đầu thế giới và số tín hữu tin vào Đức Giêsu Kitô từ 1% vào năm 1949 nay tăng đến 33% dân số.

Khi hiện ra với ông Môsê trên núi Khoreb (x. Xh 3,1-8. 13-15), Thiên Chúa đã tự giới thiệu mình là Đấng Hiện Hữu, để nhắc nhở chúng ta rằng tất cả những gì “đang có” đều bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chính Ngài là nguồn của sự sống, hạnh phúc, tình yêu, nguồn của chân thiện mỹ và ơn cứu độ. Ngài đã chia sẻ những gì mình có cho mọi loài nên cái đẹp của Ngài chan hoà trong vạn vật. Nhưng trong thời đại gần đây, người ta muốn chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một trong những giả thuyết gây nên sự chối bỏ ấy, đó là Thuyết Tiến hoá của Darwin (1809-1882). Rất nhiều ý thức hệ và chủ nghĩa đã dựa vào giả thuyết này như một tiền đề để xác định rằng: vạn vật, và ngay cả những gì thuộc về tinh thần, đều bắt nguồn từ sự tiến hoá ngẫu nhiên của vật chất chứ không phải do tác động của một ai khác sáng tạo nên.

Ý thức hệ Hiện sinh vô thần và Cộng sản duy vật đã dùng ngay giả thuyết khoa học đó để chối bỏ nguồn của hiện hữu là Thiên Chúa. Nhiều người hiện nay, nhất là các em học sinh, sinh viên trong đất nước chúng ta, tin thuyết tiến hoá như là một chủ thuyết của khoa học, một sự thật trong đời sống mà không ngờ đó chỉ là một giả thuyết và giả thuyết này đang bị các nhà khoa học chống đối kịch liệt vì nó phản khoa học, tự mâu thuẫn và gây tác hại nặng nề trong đời sống con người [105]. Chúng ta không thể sống đẹp nếu chối bỏ nguồn đẹp là Thiên Chúa!

Lời kết  

Vì vậy, người tín hữu Công giáo Việt Nam chúng ta quyết tâm từ nay sống đẹp và diễn tả cái đẹp của Chúa trong cách ăn nói, trang điểm, học hành, làm việc, vui chơi của mình. Chúng ta sẽ tích cực dấn thân trong mọi môi trường xã hội, kết kợp với nhau để làm chứng cho chân thiện mỹ, cộng tác với mọi người để phục vụ lợi ích chung, sẵn sàng chịu những thua thiệt, mất mát trong đời sống để làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, nguồn đẹp cụ thể của Chúa Cha.

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn có nghĩ rằng mình nên ăn mặc và trang điểm thật đẹp khi đi dự thánh lễ không? Tại sao?

2. “Sống đẹp như Giêsu” bao gồm những điểm cụ thể nào?

3. Bạn nghĩ gì về thuyết tiến hoá của Darwin?

 

Bài 16

Ăn để hoà nhập
vào sự sống và tình yêu

Lời mở

Ăn là hành động ta làm hằng ngày trong đời sống. Cha ông chúng ta thường dạy: “Ăn để sống” chứ không phải “sống để ăn”. Nhưng hầu như người ta ít khi tìm hiểu xem “sống là gì, và sống như thế nào mới đáng ăn”, nên cũng không biết “ăn là gì và ăn như thế nào mới đáng sống”.

1. Ăn là gì?

Xét về mặt sinh học, ăn là hành động đưa lương thực vào hệ tiêu hoá để thu nhận, biến đổi, phân giải các thức ăn về mặt vật lý, hoá học, chiết xuất các chất dinh dưỡng có ích từ đồ ăn và bài tiết ra ngoài những thứ không cần thiết cho cơ thể[106].

Đây là một tiến trình phức tạp với nhiều công đoạn, từ việc nhai đồ ăn trong miệng để nước bọt chuyển hoá tinh bột thành đường nhờ các men tiêu hoá. Trong dạ dày, thức ăn được đảo trộn với dịch vị có chứa các men tiêu hoá protein. Ruột non là phần dài nhất và quan trọng nhất của hệ tiêu hoá. Nhờ các men tiêu hoá của tuyến tuỵ và túi mật hỗ trợ, thức ăn được phân giải thành các chất dinh dưỡng đơn và được hấp thu vào dòng máu nhờ các nhung mao ở ruột non. Cuối đường tiêu hoá là ruột già, có nhiệm vụ xử lý các chất thải không tiêu hoá được, tạo thành phân để tống ra ngoài, qua hậu môn[107].

Khi hiểu được tiến trình tiêu hoá, ta sẽ thấy việc tiêu tốn quá nhiều thời giờ, tiền bạc để tìm ăn những món ngon, vật lạ, đặc sản đều không xứng hợp với nền văn hoá sự sống. Đưa vào dạ dày rồi, tất cả thức ăn sẽ được tự động phân giải thành chất đơn như Carbon, Hydro, Oxy, Nitơ, Calci, Kali, Sắt, Đồng, Chì, Kẽm… mà 4 chất đầu đã chiếm tới 96% trọng lượng cơ thể. Dù ăn thật nhiều chất dinh dưỡng nhưng cơ thể chỉ thu nhận và dự trữ những chất cần thiết cho sự sống và loại bỏ những chất dư thừa. Nếu  cơ thể không thải được chúng ra ngoài, sự sống sẽ bị tổn thương.

Điều hiểu biết này cũng nhắc nhở chúng ta phải ăn uống theo khoa học và đừng vội tin những lời đồn thổi, những “kinh nghiệm dân gian”: ăn con này, cây nọ để chữa  một số bệnh tật nan y hiện đăng tải đầy trên mạng internet. Nhiều người đã chết hay bệnh trở nên nặng hơn vì những kiểu ăn uống liều lĩnh này.

2. Con người ăn gì và ăn như thế nào?

Những người thời sơ khai cách đây 2-3 triệu năm chỉ biết ăn tươi nuốt sống những thú vật mình bắt được. Thức ăn lúc đó là những lá cây, quả rừng và thịt thú vật. Khi con người đứng thẳng (homo erectus) khám phá ra lửa cách đây khoảng 800.000 năm, họ thấy thịt nướng ăn ngon hơn, lành hơn và giữ được lâu hơn. Con người sống theo bản năng nên chỉ ăn để sống và dành hầu hết thời gian sống để tìm thức ăn.

Con người hiện đại biết suy tư (homo sapiens), xuất hiện cách nay 40.000 năm, đã tự tạo ra lửa để chế biến đồ ăn và tìm ra ý nghĩa của việc ăn uống. Đời sống an lành và nhàn rỗi hơn khi con người thuần hoá được các thú vật thành gia súc (như heo, bò, trâu, gà…) để ổn định nguồn thịt và thuần dưỡng được các loại lúa để ổn định nguồn tinh bột cho cơ thể (lúa gạo vào khoảng 3500 năm TCN, lúa mì khoảng 3000 năm TCN). Con người có thêm thời gian để học hành, nghỉ ngơi, phát triển nghệ thuật và suy tư về những giá trị của tinh thần.

Nền văn minh Hy Lạp, La Mã ở Tây Phương và Trung Hoa ở Đông Phương đã đưa việc ăn uống tiến một bước dài. Xã hội lúc này đã phân hoá thành các dân tộc với nhiều giai cấp như vua chúa, quan quyền, tăng lữ, nhà buôn và dân chúng, nên đồ ăn cũng được phân loại cao thấp và ý nghĩa bữa ăn cũng khác nhau. Tần Thuỷ Hoàng (259 TCN – 210 TCN), người đã xây dựng Vạn Lý Trường Thành, thống nhất Trung Quốc (221 TCN) còn mơ ước tìm được “của ăn trường sinh bất tử” chứ không phải chỉ ăn được những củ nhân sâm hay hà thủ ô ngàn năm[108].

Các tôn giáo còn đem lại ý nghĩa cho việc ăn uống và thể hiện niềm mơ ước của con người: ăn để sống mãi mãi. Con người không còn chỉ ăn uống cho mình, nhưng qua các tôn giáo thờ kính tổ tiên, họ còn làm các bữa cúng giỗ để tưởng nhớ người đã khuất. Con người cũng dành những lễ vật cao quý cho thần linh để cầu xin ơn thoát khỏi những tai họa thiên nhiên, đền bù tội lỗi và các ân huệ khác. Việc ăn uống từ đó mang lại sự nối kết giữa những con người sống với nhau và với thế giới của tinh thần để dẫn con người đến sự sống kỳ diệu, phi thường của thần linh.

Mỗi tôn giáo dạy cho tín hữu của mình nên ăn gì, kiêng gì và tại sao phải làm như vậy. Các triết gia cũng bắt đầu suy tư về đồ ăn cho thể xác và thức ăn cho tinh thần. Họ cho thể xác đối nghịch với tinh thần, nên chủ trương sống nghiêm khắc với chính bản thân (phái khắc kỷ), ăn uống đạm bạc, không chiều theo thú vui và dục vọng để thể xác càng nhẹ nhàng thì tinh thần càng thanh thoát. Người theo đạo Phật “cấm sát sinh” vì tin rằng mỗi sinh vật có thể là ông bà, cha mẹ, bạn hữu của mình đầu thai ở kiếp này nên khuyên chỉ ăn thực vật. Người theo đạo Thiên Chúa lại được quyền ăn mọi thứ sinh vật và thực vật trên trái đất theo lời Chúa dạy (x. St 1,28-29).

3. Ăn theo văn hoá Công giáo

Trong tinh thần hội nhập văn hoá được Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đề ra  trong Tông huấn Giáo Hội tại châu Á (năm 1999), người Công giáo Việt Nam hiểu rằng ăn là hoà nhập vào sự sống và tình yêu của Thiên Chúa với muôn loài.

Ăn là hoà nhập vào một cộng đồng hay một gia đình: từ gia đình riêng tư có cha mẹ, ông bà, con cháu, đến gia đình rộng lớn hơn là dân tộc, nhân loại, vũ trụ và lớn hơn cả là gia đình Thiên Chúa. Mỗi thành phần trong cộng đồng đều có trách nhiệm xây dựng và hy sinh cho nhau như những tế bào sống trong cùng một thân thể vĩ đại, nhiệm mầu. Khi đưa lương thực vào hệ tiêu hoá để chuyển đổi chúng thành dòng máu  nuôi sống mình, là con người liên kết với vạn vật trong vũ trụ và mọi người trên trái đất. Cơm bánh, rau củ, hoa trái, thịt cá… được hoà trộn thành một chất liệu chung tạo nên sự sống. Sự hiệp thông như mời gọi mỗi cá nhân, mỗi thành phần bỏ đi những cái riêng tư ích kỷ để hoà nhập vào cuộc sống chung và đón nhận trách nhiệm đối với muôn loài.

Việc hoà nhập vào sự sống phải dẫn chúng ta tôn trọng tuyệt đối sự sống của tha nhân. Vì thế, ta không thể trở thành những kẻ “giết người” khi bán những thứ hàng độc hại hay sản xuất những nông sản còn tồn đọng chất độc, khi ướp cá tôm, hoa trái bằng hoá chất nguy hiểm. Thánh Phaolô đã diễn tả sự hoà nhập đó: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là chúng ta dự phần vào máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,16-17).

Việc hoà nhập này dẫn mỗi “người ăn” tham gia vào một “giao ước thiêng liêng”, một hợp đồng tinh thần mà mỗi bên cam kết sẽ thực hiện vì họ mắc nợ lẫn nhau. Khi ăn là ta mắc nợ với cha mẹ, ông bà, tổ tiên và cả nhân loại: nợ mồ hôi, nước mắt, sức lực, máu xương, trí tuệ và cả sinh mạng nên ta phải trả nợ cho con người, cho đất nước và nhân loại bằng đời sống tích cực học hành, làm việc thay vì chỉ ăn để sống cho mình.

Ta mắc nợ với muôn loài về sự sống, tình yêu chúng dành cho ta: bao nhiêu ngọn rau, tôm cá chết đi để ta được sống, trong khi chúng cũng yêu quý sự sống chẳng thua kém con người. Như thế, mỗi giây phút ta sống đều quý giá, linh thiêng, nên ta phải trân trọng, bảo vệ và phát huy để biểu lộ lòng biết ơn đối với muôn loài.

Người Công giáo không tin rằng những sinh vật là tiền kiếp của con người và phải chịu trách nhiệm theo luật nhân quả. Một con kiến đốt ta, một con chó cắn ta chỉ hành động theo bản năng và chúng không có ý thức và ý chí khi thực hiện hành động ấy, nên chúng không thể chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Hơn nữa, người Công giáo khi ăn chúng để tạo nên sự sống cho mình thì cũng là giúp chúng được chia sẻ sự sống vĩnh hằng và phi thường với con người. Như thế, ăn là cứu độ muôn loài!

Ăn còn là hoà hợp trong tình yêu. Để tạo nên sự sống cho ta, nhiều người phải mòn mỏi vất vả làm việc, thậm chí đón nhận cả cái chết. Họ đổ biết bao giọt mồ hôi, nước mắt, sức lực ở chợ đời để đem về cho ta con cá, bát cơm. Có người phải vùi thân trên biển vì cơn bão bất ngờ. Có người phải cụt tay chân vì quả mìn còn sót lại trên đồng ruộng. Bao chiến sĩ đã hy sinh thân mình để bảo vệ từng tấc đất quê hương để dân tộc ta mới có được vườn rau, ruộng lúa. Động lực khiến tất cả hy sinh cho ta chính là tình yêu. Muôn loài, muôn vật, muôn người đều yêu ta.

Đó chẳng phải là thứ tình cảm yêu đương giữa nam nữ như người ta thường hiểu, nhưng là tình yêu trong sáng, quảng đại làm thành bản chất thiêng liêng của muôn loài. Những bông hoa khoe sắc, toả hương mà chẳng đòi một đồng xu nhỏ, cũng chẳng cần biết ai là người tốt hay kẻ xấu. Những ngọn rau, tôm cá hy sinh sự sống mà chẳng cần biết ai là người công chính hay kẻ gian tà. Chúng bắt chước “Cha Trên Trời cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Hiểu được và cảm nhận được tình yêu đó, ta mới sẵn sàng chia sẻ tiền bạc, tài năng, tình yêu, sự sống cách quảng đại và vô vị lợi cho bất cứ ai. Sống như thế ta mới đáng ăn như những người con của Trời và anh em ruột thịt của muôn loài.

Trong lịch sử nhân loại, dân tộc Do Thái đã nhận được lương thực từ trời mà họ gọi là “manna” trong suốt 40 năm khi họ đi trong sa mạc Sinai để tìm về Đất Hứa. Đó chỉ là hình ảnh báo trước về “tấm bánh trường sinh từ trời xuống” (Ga 6,51) là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để muôn loài có thể đón nhận Người và đạt được sự sống vĩnh hằng, kỳ diệu của Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã nhiều lần làm các phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, chữa lành bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, chia sẻ cho tất cả tông đồ và môn đệ quyền năng ấy nếu họ tin tưởng, đón nhận, kết hợp với Người và “ăn” Người để làm nên một thân thể nhiệm mầu, có chung một sự sống phi thường của Thiên Chúa. Những người tín hữu Công giáo cũng đã ăn theo “giao ước mới” được Đức Giêsu thiết lập (x. Mc 14,22-24; Dt 9,11-15) để thực hiện bữa ăn “agape” (bác ái) khi cùng bẻ bánh ăn chung với nhau (x. Cv 2,42.46; 20,7). Tuy nhiên, nhiều người vẫn chỉ đón nhận tấm bánh theo hình thức bên ngoài của bí tích Thánh Thể, nên họ chưa thật sự phát huy hiệu quả phi thường của tấm bánh Giêsu trong đời sống.

 Lời kết

Trong nền văn minh tình yêu và văn hoá sự sống, con người  không còn chỉ đạt tới điểm “ăn ngon, mặc đẹp”, nhưng “ăn thần, mặc thánh”, nghĩa là ăn để phát huy đời sống tinh thần, để trở nên thần thánh, vượt ra khỏi vật chất, không gian và thời gian cho những giá trị vĩnh hằng. Như thế, niềm mơ ước của Tần Thuỷ Hoàng tìm được của ăn trường sinh bất lão đã được chúng ta biến thành hiện thực nhờ Đức Giêsu Kitô, vì Người thật sự là “bánh hằng sống từ trời xuống” (Ga 6,51). Lịch sử của Giáo hội Công giáo đã và đang làm chứng về điều đó. Bạn có bao giờ mơ ước ăn được tấm bánh đó không?

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn có những suy tư gì về việc ăn của con người và của chính mình?

2. Bạn dự tính thay đổi bữa ăn của gia đình mình như thế nào để thể hiện việc hoà nhập vào sự sống và tình yêu?

 

Bài 17

Học với người thầy tuyệt vời 

Lời mở

Mỗi người chúng ta thường dành 10 hay 20 đầu tiên trong cuộc đời để học hành. Chúng ta tốn rất nhiều công sức, thời giờ, tiền của cho hoạt động giáo dục này, nhưng rất ít người tự hỏi: Học để làm gì? Học thế nào cho hiệu quả nhất? Học với ai cho xứng đáng nhất?

1. Học để làm gì?

Trong hơn 10 thế kỷ bị người Trung Quốc đô hộ (111 TCN – 938) và 10 thế kỷ độc lập (939-1945), người Việt học để làm quan, vì đó là cách tiến thân và khẳng định chính mình nhanh nhất trong một xã hội phong kiến với nền quân chủ chuyên chế. Nội dung học là bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh của Trung Quốc, và một số kỹ năng thơ phú vì nền giáo dục nước ta bị ảnh hưởng nặng nề của văn hoá Trung Quốc. Phương pháp học tập, cách thi cử cũng vì nội dung này mà bị hạn hẹp vào những cách ứng xử trong mối tương quan xã hội như: vua-tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè theo tam cương, ngũ luân hoặc theo những tiêu chuẩn: nhân, nghĩa, lễ, tín, trí hay công, dung, ngôn, hạnh.

Bước vào thời kỳ dân chủ cộng hoà cho cả hai miền Nam Bắc (1945-nay), dù nội dung học là những kiến thức thiết thực hơn, nhưng phương pháp học, cách thi cử không khác xưa bao nhiêu. Gần đây người ta mới nhận ra những hạn chế của nền giáo dục này và đang quyết liệt đòi phải “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế”[109].

Lý do là vì nền giáo dục hiện nay quá chú trọng vào việc truyền đạt kiến thức, mang nặng tính cách nhồi nhét, trong khi lại coi thường việc vận dụng kiến thức để giải quyết những vấn đề mà công việc và cuộc sống đặt ra. Thật ra, khoa học và công nghệ phát triển rất nhanh, kho tàng kiến thức mỗi ngày một lớn, nên một số tri thức cũng nhanh chóng trở thành lạc hậu và bị đào thải. Tin học và truyền thông thế giới lại đòi hỏi con người phải hoà nhập vào cộng đồng quốc tế, nếu không sẽ tụt hậu và bị bỏ rơi.

Vì thế, tham vọng muốn trang bị cho người học đầy đủ kiến thức cơ bản của nhân loại trong chương trình giáo dục là không thể, không cần thiết và không hiệu quả. Người học có thể tự đào tạo các kỹ năng và phẩm chất nhờ các phương tiện truyền thông và có thể tự học suốt đời.

Cũng vì tham vọng này nên nội dung giáo dục hiện nay mang nặng tính lý thuyết, không phù hợp với tâm sinh lý và khả năng tiếp thu của người học, nhất là học sinh ở bậc tiểu học và trung học cơ sở. Chương trình quá rộng, chế độ điểm số và thi cử nặng nề, bệnh thành tích và gian lận trong việc cho điểm thi cử, không có thời giờ để suy tư, tìm hiểu nên chỉ còn một cách duy nhất là học thuộc lòng để đi thi, cách quản lý “cầm tay chỉ việc”, chế độ dành một số chỉ tiêu đào tạo tại các trường đại học khiến cho quan chức đưa con em mình vào học… đã làm mất đi ý nghĩa cao quý, vô tư, công bằng của nền giáo dục chân chính.

Kết quả là học sinh miệt mài học tập, mất đi tuổi thơ, ảnh hưởng đến sức khoẻ và tâm sinh lý khiến cho năng suất làm việc của người Việt Nam gần như thấp nhất khu vực Đông Nam Á. Lớp sinh viên vừa học vừa tìm cách đối phó cho đạt điểm số, hơn là thu nhận kiến thức đầy đủ. Do đó, thay vì đào tạo được những con người năng động, sáng tạo, biết phát hiện các vấn đề nảy sinh và giải quyết được chúng, thì nền giáo dục lại tạo ra những con người ham học vị, nhạy cảm với lợi ích của bản thân và tập thể nhỏ hơn là quan tâm đến lợi ích lâu dài của dân tộc và nhân loại[110].

Nếu có dịp hỏi các học sinh, sinh viên và phụ huynh học sinh học để làm gì, thì nhiều người sẽ trả lời rằng không biết học để làm gì, vì chỉ làm theo mọi người; hay học để có công ăn việc làm, để kiếm tiền, để sau này giúp đỡ gia đình. Chỉ có vài người trả lời học để mở mang kiến thức hay để hoàn thiện chính mình.

Năm 1997, Hội đồng Giáo dục của Unesco đã công bố một thông điệp mang tên: “Học tập – một kho báu tiềm ẩn” để xây dựng bốn trụ cột cho việc học và định hướng cho việc giáo dục thế kỷ XXI: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” (Learning to know, to do, to live together and to be).

+ Học để biết là nắm được những kiến thức chuyên môn cần thiết.

+ Học để làm là có khả năng tác động vào môi trường sống của mình.

+ Học để sống chung là tham gia và hợp tác với người khác trong mọi hoạt động.

+ Học để tự khẳng định mình là phát triển được hết năng lực, phẩm chất của mỗi cá nhân, giúp làm chủ được cuộc đời, tìm được ý nghĩa cho đời sống, trở thành một con người cao quý, độc đáo trong cộng đồng nhân loại.

Bốn trụ cột này tạo nên một thể thống nhất vì chúng liên đới và tác động lên nhau để xây dựng thành “một con người có giáo dục”. Thiếu một trụ cột nào hay yếu kém một trụ cột nào thì nền giáo dục không toàn vẹn và hoàn hảo.

Công đồng Vaticanô II (1962-1965) đã ra tuyên ngôn “Gravissimum Educationis” ngày 28/10/1965 và nhắc nhở chúng ta về “vai trò vô cùng quan trọng của việc giáo dục trong đời sống con người và tầm ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của ngành giáo dục đối với sự phát triển của xã hội hiện nay”. Học không phải chỉ để biết, để làm, để sống, để khẳng định mình như một con người mà còn như một người con của Thiên Chúa, hiểu biết vô cùng, hành động phi thường, tồn tại mãi mãi và hạnh phúc vô biên. Bạn có muốn học để được như thế không?

2. Học thế nào cho hiệu quả nhất?

Tuỳ theo mục đích học tập, người ta giới thiệu nhiều phương pháp học để đạt hiệu quả cao.

Nếu học để thu nhận được nhiều kiến thức, kỹ năng, người ta khuyên nên chọn thời điểm và không gian yên tĩnh, nên học vào buổi sáng, nên ngủ trưa và ngủ đêm đủ để hồi phục trí não, tập trung cao độ trong khoảng 1 giờ rồi nghỉ giải lao cho đầu óc thư giãn, tập ghi nhớ bằng các dàn bài tóm tắt, hạn chế nghe nhạc trong khi học, không học khi vừa ăn xong, tận dụng hai bán cầu não: não trái chủ yếu cho tư duy logic, não phải cho tưởng tượng hình ảnh[111].

Nếu học để hành động, người ta khuyên học sinh tập trung nghe giảng để tăng hiệu suất tiếp thu, ghi chép hiệu quả, tích cực thực hành và làm bài tập, học từ cơ bản đến nâng cao, tạo lập thói quen tự học, học với thái độ tích cực[112].

Nếu học để sống tốt đẹp với người khác, người ta khuyên người học cần hiểu biết tâm lý con người, các môn khoa học xã hội nhân văn, quản lý nhân sự… Muốn thành công, người đó cần có nhận thức đầy đủ về con người, về cộng đồng nhân loại mình đang sống và luyện tập các đức tính xã hội.

Nếu học để tự khẳng định mình thật sự là ai khi phát triển được hết những năng lực và phẩm chất của con người như mục đích cao cả nhất của hoạt động giáo dục (học để làm người, để thành nhân), thì khẳng định mình để làm gì nếu không có người nào hay Đấng nào tồn tại mãi mãi để công nhận sự khẳng định đó? Trong khi con người tận thâm tâm luôn muốn tự khẳng định mình, luôn muốn sống mãi, trẻ mãi, đẹp mãi. Vậy ta đi tìm phương pháp học nào để đạt được điều đó?

Tuy nhiên, trước khi đi tìm phương pháp để thu nhận những hiểu biết, kỹ năng làm, nghệ thuật sống, rèn luyện ý chí, đón nhận tình yêu và hạnh phúc, ta cần phải hiểu rõ chúng là gì trong con người mình.

Các nhà khoa học cho đến hôm nay, vẫn chưa tìm ra được chỗ chúng ẩn náu trong con người vật chất của ta. Người ta nói đến trái tim chứa đựng tình yêu, nhưng mổ nó ra, không thấy tình yêu trong mô tim, cơ tim nào cả. Người ta nói đến bộ não với hàng trăm tỷ tế bào thần kinh, nhưng lục tìm trong đó chỉ thấy những đơn chất C H O N, những sắt đồng chì kẽm. Khi con người suy nghĩ hay có cảm xúc yêu thương, người ta chỉ thấy các dòng xung động điện chạy trong sợi trục của tế bào thần kinh, rồi đến cuối sợi trục, ở khe khớp thần kinh (synap) chúng phóng ra các chất dẫn truyền thần kinh là các túi hoá chất[113].

Kiến thức, cảm xúc, tình yêu chỉ là những phản ứng như thế. Khoa học cũng chưa thể nào đo được kiến thức thế nào là cao, cảm xúc thế nào là mạnh, tình yêu thế nào là đẹp! Chúng phải bắt nguồn từ đâu đó để chuyển đến ta và ta phải biết cách để đón nhận, lưu giữ và phát huy chúng, cho cuộc đời của mình phong phú, tươi đẹp, hạnh phúc.

Như thế, phương pháp học bằng tinh thần (chứ không chỉ bằng bộ não) lại tóm gọn vào vài điểm cơ bản sau đây:

– Trí vô tư

Giữ sao cho tâm trí ta được hồn nhiên, trong sáng để dễ dàng tiếp nhận những kiến thức hữu ích, những kỹ năng hữu dụng và nhất là những sự thật về mọi người, mọi vật quanh ta.

Trong thời đại thông tin kỹ thuật số này, nhiều người đã làm thương tổn, thậm chí huỷ hoại tâm trí của mình. Ký ức hay bộ nhớ của họ chứa đầy những hình ảnh đồi truỵ, bạo lực, ma quái hay những trò chơi vô nghĩa. Ta cứ tính thử xem: 1 giây có 24 hình ảnh động đi qua con mắt rồi lọt vào bộ nhớ, trong đó chứa các dữ liệu về màu sắc, tiếng nói, âm thanh, ngữ nghĩa, cử động, cảm xúc của từng ảnh. 1 giờ xem phim hay chơi game online là bộ nhớ phải chứa hàng tỉ tỉ dữ liệu. Còn đâu bộ nhớ thừa ra cho việc học!

Ta cần phải xoá những dữ liệu vô ích để cho tâm trí vô tư. Nếu giữ tâm trí vô tư, bạn sẽ học rất nhanh, thu nhận được nhiều nội dung lạ lùng vì Đấng là nguồn của khôn ngoan và tư tưởng sẽ chia sẻ cho bạn kho tàng của Ngài.

– Thở nhiều khí trời và khí thiêng

Khi học, bộ não cần rất nhiều khí trời để chuyển hoá các chất nuôi dưỡng từ máu và dịch não tuỷ cũng như khí oxy vào các tế bào thần kinh. Do đó, khi học nên ngồi thẳng, thỉnh thoảng hít thật dài hơi và xoa các vùng vỏ não như thị giác, thính giác, cảm xúc, vận động, vùng ngôn ngữ Broca, Wernicke, Geschwind, vùng điều hành trung tâm… cho máu lưu thông để kích thích hoạt động thần kinh[114].

Nếu bạn đã tin rằng tư tưởng, tình cảm, kiến thức của bạn bắt nguồn từ một tinh thần tuyệt đối, thì bạn cần phải tiếp cận được với nguồn đó bằng các hình thức được các tôn giáo đề nghị như cầu nguyện, suy niệm, tâm niệm, chiêm niệm, thiền định… Như thế, phương pháp học theo khoa học và học theo tôn giáo không có đối lập và mâu thuẫn với nhau như một vài nhà khoa học vô thần diễn tả[115]. Ngược lại, cả hai khoa học và tôn giáo bổ túc cho nhau để giúp cho tâm trí con người mở ra với Đấng Siêu Việt và hướng tới vô biên[116].

Tinh thần cũng có một bộ não chứa đựng tất cả những gì thuộc về lĩnh vực thiêng liêng, nên ta cũng cần thở khí thiêng để chuyển hoá được các ân huệ mà tinh thần tuyệt đối chia sẻ cho ta. Kitô giáo gọi thần khí ấy là Chúa Thánh Thần, được Đức Giêsu Kitô Phục Sinh ban cho các môn đệ của Người khi thổi hơi trên họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).

Chúa Thánh Thần ban cho những ai tin vào Ngài và thở thần khí của Ngài 7 hồng ân là khôn ngoan, thông minh, lo liệu, can đảm, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Thiên Chúa[117]. Ngài cũng ban những ơn lạ lùng khác như đặc sủng, đoàn sủng, hiện sủng để giúp con người thể hiện bản chất là con cái Thiên Chúa của mình (GLHTCG, số 1799, 2003) như ơn làm phép lạ, ơn chữa lành (số 1508), ơn thông thạo các ngôn ngữ, ơn tiên tri, ơn khiết tịnh (số 2345), tình yêu (số 733, 735, 2712)… Vì thế, người tín hữu Kitô không phải chỉ học bằng sức lực của con người mà còn bằng các ơn lành của Chúa Thánh Thần. Lịch sử khoa học nhân loại đã chứng minh điểu đó với những nhà bác học như Ampère, Volt, Newton, Marie Curie…

3. Học với ai cho xứng đáng nhất?

Trong đời sống con người, chúng ta đã được học với nhiều người thầy và cảm nghiệm rằng thầy nào càng yêu mến ta, càng dạy ta những điều tốt đẹp, ta càng quý trọng, biết ơn. Vị thầy nào càng dạy được nhiều người, ảnh hưởng và thay đổi lớn lao cuộc đời con người, thì càng được tôn vinh. Tuy nhiên, ta nên hiểu rằng mọi tư tưởng tốt đẹp, sự khôn ngoan, tình yêu, ân huệ và những gì thuộc về tinh thần đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng tạo thành con người giống hình ảnh Ngài và ban cho con người có tinh thần vượt ra khỏi những giới hạn của vật chất, không gian và thời gian. Ngài đã sai Con Một của Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành con người, trở thành Đức Giêsu Nazareth, để cứu độ con người và toàn thể vũ trụ và chỉ cho muôn loài con đường tìm về sự thật toàn diện và sự sống vĩnh hằng. Ngài còn ban Chúa Thánh Thần cho con người để soi sáng tâm trí và giúp con người nhận ra con đường dẫn tới Thiên Chúa.

Khi nhận ra Thiên Chúa là vị thầy tối cao (x. Mt 23,8-9), nguồn của mọi tri thức, con người mới sẵn lòng chia sẻ cách quảng đại và vô vị lợi những gì mình khám phá được cho mọi người thay vì giấu nghề, giữ bí mật, đòi tác quyền quá đáng như hiện nay.

Khi nhận ra Đức Giêsu là vị Thiên Chúa cụ thể, là Người Thầy tuyệt vời, con người mới cảm thấy tự hào được làm môn đệ của Người Thầy và cũng là vị Chúa của mình (x. Ga 13,13,14). Người không chỉ dạy ta những mảnh sự thật nhưng là một sự thật toàn diện, hoàn hảo: về Thiên Chúa, về con người, về vạn vật, về chính mình. Sự thật là chính Đức Giêsu sẽ giải thoát ta khỏi mọi u mê lầm lạc (x. Ga 8,32), đem lại cho ta sự tự do của con cái Thiên Chúa và chia sẻ cho ta sự sống vĩnh hằng. Đức Giêsu đã xác định điều đó khi Người nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Vì thế, Đức Giêsu mời gọi ta: “Anh em hãy học với tôi” (Mt 11,29). Học với Đức Giêsu để biết, không phải chỉ một số kiến thức, nhưng đạt tới nguồn sự khôn ngoan. Lúc đó ta có khả năng vô tận để khám phá ra vạn vật vì tất cả thụ tạo được dựng nên nhờ Người và cho Người.

Học với Đức Giêsu để hành động như Người đã làm khi yêu thương đến nỗi chết cho tất cả và sống lại vì tất cả. Lúc đó ta có khả năng để nói cho gió im, biển lặng, bánh cá hoá nhiều, chữa lành bệnh tật và cho cả kẻ chết được sống lại.

Học với Đức Giêsu bài học sống với tha nhân cách quảng đại và cao thượng như Người yêu cầu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Lúc đó ta sẽ làm cho cộng đồng nhân loại bình an, hạnh phúc, phát triển vững bền.

Học với Đức Giêsu để tự khẳng định mình, không phải chỉ làm chủ được mình và tìm ra ý nghĩa của đời mình, như một con người sống tạm bợ ở trần thế, nhưng ta còn khẳng định mình là con cái vĩnh hằng của Thiên Chúa trong Nước Trời mà chúng ta cùng xây dựng với Người (x. Lc 11,20; 17,20-21).

Lời kết

Vì thế, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Thầy Giêsu để chăm chú học hành và thực hiện lời dạy của Người trong mọi hoàn cảnh của đời sống: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Chỉ Thầy mới có những lời ban sự sống” (Ga 6,68).

Câu hỏi gợi ý

1. Bạn có nhận định gì về nền giáo dục của nước ta hiện nay?

2. Bạn có kinh nghiệm nào khi học với Thầy Giêsu?

3. Bạn có kinh nghiệm nào về sự soi sáng của Chúa Thánh Thần và ân huệ của Ngài?

           

                                              Bài 18

Văn hoá chữ viết

Lời mở

Sống trong thời đại tin học, nhiều người ít quan tâm đến chữ viết tay và chỉ cần gõ trên bàn phím của chiếc điện thoại hay máy vi tính là có thể gửi thư cho nhau rồi[118], hoặc chỉ cần ra lệnh cho máy in bàn là người ta có một văn bản đẹp với đủ loại kiểu dáng chữ in. Hơn nữa, vì cuộc sống vội vã, nên những gì cần viết tay, người ta thường viết rất nhanh, đường nét không chuẩn, dấu chữ đặt sai vị trí, nhưng vẫn có thể đọc được vì đã quen với chữ Việt và tiếng mẹ đẻ của mình. Trầm trọng hơn cả là người ta coi thường văn phạm trong những văn bản trên báo chí, truyền hình, sách vở, dùng những từ thông tục và thường đánh dấu các từ không chính xác theo ngôn ngữ học. Người Việt chúng ta hiện nay quả thật ít quan tâm đến văn hoá chữ viết!

1. Câu chuyện thực tế

Tôi làm giảng viên dạy môn Kỹ thuật Chữ cho các sinh viên ở khoa Công nghệ In của trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, ở khoa Mỹ thuật Công nghiệp của trường Đại học Kiến Trúc TP.HCM, ở khoa Ngữ văn Báo chí của trường Đại học Tổng hợp TP.HCM, cũng như các môn khác trong các học viện Công giáo ở TP.HCM trong nhiều chục năm qua. Tôi đã thử cho các sinh viên viết 4 câu thơ sau đây trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Trong hơn 5000 sinh viên tôi mời thử nghiệm, trong lần viết đầu tiên, chưa có một ai viết đúng chính tả và đặt dấu giọng chính xác. Họ thường sai ở một số lỗi chính tả khi đặt dấu hỏi ( ?) cho từ cõi, hay đặt dấu ngã (~) cho từ trải.  Hầu hết là họ đánh dấu giọng sai vị trí: những dấu đó thường được đánh vào chữ sau, đặt lên trên các phụ âm, hay đánh vào phía sau từ chứ không trên nguyên âm hay phụ âm nào[119]. Người Việt chúng ta vì quen từ quen mắt nên đọc ra ngay được, nhưng đối với người nước ngoài đã học cách đánh dấu đúng chữ Việt, họ không thể nào hiểu từ đó là gì và tại sao lại đánh dấu như thế. Thí dụ: “Trăm năm trong coĩ ngươì ta…”.

2. Các em học sinh lớp 1 học viết tiếng Việt như thế nào?

Trở lại câu chuyện giáo dục, từ bao nhiêu năm nay, các thầy cô dạy tiếng Việt cho các em học sinh lớp 1 bậc tiểu học, vẫn dạy cách đánh dấu giọng hay dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) phải đặt trên nguyên âm chứ không trên phụ âm (x. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tiếng Việt lớp 1, 2 tập , NXB Giáo dục Việt Nam, 2018).

Ngay từ bài đầu tiên của sách Tiếng Việt lớp 1, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu các thầy cô dạy các em học sinh viết chữ với những nét chính, nét phụ theo các đường căn bản như đường nền, đường chữ hoa, đường chữ thường, đường trên, đường dưới, phân biệt chữ in và chữ viết tay[120].

Khởi đầu với những từ có 1 nguyên âm như: bé bè bẻ bẽ bẹ (Bài 3), đến 2 âm như: mía, bìa, hoặc 3 âm như: chiều, chuối, bưởi, diều, rượu (Bài 35-42), rồi đến các vần có âm tiết cuối với 1 nguyên âm như bàn, sàn (Bài 44), đến 2 nguyên âm như điện, yến, chuồn chuồn (Bài 50) hoặc hai âm tiết cuối như: võng, luống, trường (Bài 56). Những bài sau cùng dành cho các vần khó như hoa, hoà, xoè, khoẻ (Bài 91), hoặc thoại, xoay (Bài 92), hoài, hoàng, hoằng (Bài 94), hoạt, choắt (Bài 96), hoặc huệ, huý (Bài 98), hay thuở, khuya (Bài 99).

Chắc chắn tuổi 6,7 các em chưa thể phân biệt được các chữ i, o , u  trong một số vần lúc này là nguyên âm, lúc khác là bán phụ âm theo khoa ngôn ngữ học hiện đại. Nhưng các bài dạy trong giáo trình Tiếng Việt lớp 1 là hoàn toàn chính xác, dù các em học theo phương pháp của Bộ Giáo dục hay theo phương pháp Công nghệ Giáo dục của giáo sư Hồ Ngọc Đại[121].

3. Người lớn chúng ta hiện nay đánh dấu ra sao?

Dù Việt Nam chúng ta đã có Viện Ngôn ngữ học, với những cuốn từ điển Tiếng Việt được coi như quy chuẩn cho việc sử dụng từ ngữ và viết chữ. Thí dụ như Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do giáo sư Hoàng Phê chủ biên[122], Từ điển Bách khoa Việt Nam[123] do Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn. Nhưng việc dùng từ ngữ và nhất là cách đánh dấu giọng trên các từ vẫn còn rất tuỳ tiện.

Hơn nữa, chúng ta còn có Quyết định số 240/QĐ ngày 5/3/1984 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục ban hành kèm theo bản “Quy định về Chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt”[124], và Quyết định số 09/1998QĐ-VPCP, ngày 25/11/1998 của Văn phòng Chính Phủ về cách viết hoa các tên riêng[125]. Tuy dù các văn bản pháp quy đó rất rõ ràng và cụ thể, nhiều văn bản của chính quyền cũng như của các tổ chức xã hội dân sự vẫn chưa giữ đúng các quy định đó. Các văn bản thường đánh sai dấu trên các vần oa, oe, uê, uơ, uy (Thí dụ: trong các từ hóa, lóe, hụê, thủơ, thúy,) vì không phân biệt được các chữ a, e, i, o, u, y có thể là nguyên âm và cũng có thể là bán phụ âm.

Chúng tôi đã phân tích vấn đề và đã trình bày trong cuộc Hội thảo Khoa học ở Bình Định, từ ngày 12-13/1/2016, với chủ đề Bình Định với chữ Quốc ngữ[126]. Cách đặt dấu giọng sai sót này đang phổ biến và lan rộng trong các sách vở, báo chí, truyền hình. Nó đi  ngược với sự chuẩn hoá của tiếng Việt theo đúng khoa ngôn ngữ học được Nhà nước quy định. Nó cũng biểu lộ tính phân hoá của người Việt Nam, thái độ coi thường pháp luật và không tôn trọng khoa học của người Việt Nam, khiến cho người nước ngoài đánh giá thấp giá trị tiếng Việt và chữ Việt.

Nguyên nhân: thái độ này bắt nguồn từ những dữ liệu trong lịch sử như cách đánh dấu giọng chưa chính xác trong các cuốn từ điển như Từ điển Việt La của giám mục Adran biên soạn năm 1771-1772, của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, Từ điển Việt Pháp của A. Caspar Lộc xuất bản năm 1877, và của J.M. Génibrel năm 1898, cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của xuất bản năm 1895-1896, cuốn Đại Từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý và các bạn xuất bản năm 2013, và một số từ điển Tiếng Việt mới đây của Viện Ngôn ngữ do Hoàng Long chủ biên xuất bản năm 2007 hay do Quang Hùng, Minh Nguyệt biên soạn xuất bản năm 2007. Sự xuất hiện của các từ điển này đã gây rối loạn trong cách viết tiếng Việt hiện nay[127].

4. Văn hay chữ tốt

Cha ông ta thường nhắc nhở: văn hay chữ tốt, chứ không phải văn hay chữ đẹp. Có những người viết chữ rất đẹp giống như ông đồ xưa:

Hoa tay thảo những nét

Như phượng múa rồng bay[128]

Tuy nhiên, nhìn nét chữ của người đó người ta có khi chỉ thấy tính bay bướm, ăn chơi phóng đãng của họ chứ không biểu lộ tâm hồn cao thượng, tốt đẹp . Vì thế người ta cần viết chữ tốt hơn là chữ đẹp. Văn là người và chữ cũng là người!

Khoa tâm lý học hiện đại đã căn cứ vào những nét chữ viết tay để đoán ra tâm tính, tư cách, tài năng của con người. Người ta áp dụng việc phân tích nét bút của người viết trong các ngành tuyển dụng nhân sự, lựa chọn nghề nghiệp, giám định tư pháp. Các nhà tâm lý học còn cho rằng có sự liên hệ, tương quan giữa nét chữ và sức khoẻ tâm lý. Căn cứ vào nét chữ to, nhỏ, đậm, nhạt, nét mạnh mẽ, thẳng đứng hay cong queo, chữ rộng hay hẹp, khoảng cách giữa các từ nhiều hay ít, chiều cao của chữ hoa vừa hay thấp, độ nghiêng của chữ về bên phải hay bên trái… mà người ta có thể đoán ra phần nào khả năng, trí tuệ, tâm tính của người viết[129].

Thật ra, việc phân biệt rõ chính tà, tốt xấu của một người không thể chỉ căn cứ vào chữ viết bên ngoài, dù rằng chữ viết có thể giúp phỏng đoán phần nào khi dùng nó như dấu hiệu. Con người là một mầu nhiệm sau thẳm vô cùng, nên cha ông ta vẫn nhắc nhở:

Dò sông dò biển dễ dò

Nào ai lấy thước mà đo lòng người[130].

Người ta có thể sử dụng bút tích như một dấu hiệu để suy đoán, vì những nét chữ hình thành từ những thói quen lâu dài của con người , từ quan điểm về nghệ thuật, từ hoàn cảnh của người viết (cấp bách hay bình thường), từ tâm trạng (thư thái hay bất an). Nếu nét chữ chỉ là một dấu hiệu để suy đoán, thì ta cũng đừng dùng nó như một bằng chứng để quyết đoán về con người. Con người luôn mở ra tới vô biên và nét chữ có thể luôn thay đổi để việc suy đoán của ta không bao giờ tận cùng!

Có lẽ vì muốn cho con cái mình luyện được chữ tốt, nên cha mẹ thời xưa thường thúc giục con cái tập đồ các chữ theo các tập in sẵn để luyện chữ viết cho thẳng hàng, cân đối, hài hoà. Các cháu học sinh lớp 1 hiện nay cũng đang làm như vậy, nhưng nhiều cha mẹ lại ít quan tâm đến việc này, vì chữ viết của họ rất xấu, không dám làm gương cho con cái. Nhiều người viết mà người khác đọc không ra chữ khiến cho thi sĩ Nguyễn Khuyết phải than:

Văn hay chữ tốt ra tuồng

Văn dai như chão, chữ vuông như hòm!

5. Chữ Quốc ngữ – chữ nước ta

Chữ Quốc ngữ hiện nay là chữ ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh, có bổ sung một số dấu phụ của tiếng Ý, tiếng Bồ Đào Nha, được các linh mục Dòng Tên phương Tây như Francisco de Pina, João Roiz, Gaspar Luis, Cristo Forro Borri, Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), Gaspar d’Amaral với sự cộng tác của người Việt Nam như Igesicô Văn Tín, Bento Thiệu sáng tạo ra trong khoảng 1620-1659[131].

Điều đáng ghi nhận ở đây là dù khoa ngôn ngữ học vào thời đó chưa được thành hình, nhưng trong các tác phẩm của Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) như Phép giảng Tám ngày, Văn phạm Annam, nhất là cuốn Từ điển Việt-Bồ-La xuất bản năm 1651 ở Rôma, các dấu giọng được đánh rất chính xác trên các từ như hoá, hoà, hoả (tr.329-330) phân biệt với hào, hảo (tr. 315,316) hoặc trên các từ thuế (tr. 782), lào (tr.402) léo (tr.411) và loã lồ (tr.417) theo đúng với Từ điển khoa Ngôn ngữ học. Riêng vần uy với từ hủy (tr.341) và thủy (tr.783)[132], chúng tôi hiểu rằng những con chữ sắp tay đúc bằng chì thời đó chưa đúc được theo đúng ý của tác giả vì độ đặt dấu “nặng” dưới chữ y (ỵ) không thể thực hiện được như ta thấy tác giả Gustave Hue đã nói đến lý do này trong lời mở đầu cho cuốn Từ điển Việt Hoa Pháp xuất bản năm 1937 của ông ở Huế[133].

6. Vài cách viết nên sửa đổi cho thống nhất

6.1. Đặt dấu giọng trên các vần oa, oe, uê, ươ, uy

Chúng ta không thể nói đến việc đặt dấu giọng sai hay đúng đối với các bậc tiền nhân thuở trước, vì tiếng Việt là một sinh ngữ luôn luôn phát triển và khoa ngôn ngữ học hiện đại mới chỉ có mặt trên thế giới cách đây khoảng 100 năm, và trong nước ta khoảng 50 năm mà thôi. Việc không thống nhất dấu giọng trong các từ điển, sách báo từ thời Alexandre de Rhodes cho đến nay là chuyện bình thường trong việc hình thành và phát triển tiếng Việt.

Tuy nhiên, một khi chúng ta đã có những nguyên tắc rõ ràng của khoa ngôn ngữ học để có cách đánh dấu chuẩn mực, được thể hiện qua các sách giáo khoa và từ điển như bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam, thì chúng ta cần tiến tới sự thống nhất cách đặt dấu giọng trên toàn quốc và phổ biến cả ra nước ngoài để những ai học tiếng Việt tìm được sự trong sáng và hợp lý.

Việc thiếu thống nhất trong cách đặt dấu giọng trên các vần oa, oe, ue, uơ, uy bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân như do thói quen đánh dấu từ nhỏ, do việc tra cứu các từ điển không đánh dấu đúng theo ngôn ngữ hiện đại. Lý do quan trọng nhất là sự lầm lẫn giữa âm và chữ trong tiếng Việt.

Trong mỗi ngôn ngữ, người ta phân biệt phụ âm và nguyên âm. Tiếng Việt hiện nay có 33 chữ cái: A Ă Â B C D Đ E Ê F G H I J K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V W X Y Z với 5 thanh điệu: không dấu, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng[134]. Tiếng Việt có khoảng 55 âm vị.

Khi ngôn ngữ học hiện đại chưa phát triển, rất nhiều người Việt cho rằng các chữ a e i o u y đều là những nguyên âm, nên việc phát âm và đặt dấu giọng trên các từ giống như nhau. Thí dụ: từ hào và từ hoà gồm hai “nguyên âm” ao, vì thế đặt dấu giọng vào giữa là giống nhau và hợp lý nên viết “hào” và “hòa”. Tương tự, các vần eo và oe với từ héohoè với hai “nguyên âm” eo nên viết “héo” và “hòe”; vần iu và ui, uy với từ thiu, thúi, thúy vì cho rằng đó là các “nguyên âm” i, u y. Khi đặt dấu giọng như thế, người ta thấy cân đối và đẹp nữa. Nhưng khi gặp vần êu và uê với từ tếutuế, người ta lại đặt dấu giọng khác nhau dù vẫn là “nguyên âm” êu. Các từ điển đều đặt dấu giọng ở âm sau trên các từ huệ, huề, Huế, cũng như khi gặp vần uơ trong từ thuở. Người ta không còn đưa ra lý do cân đối mà giải thích theo thói quen, như ta thấy đa số trong các từ điển, sách báo và trên các phương tiện truyền thông hiện nay.

Với ngôn ngữ học hiện đại, người ta phân biệt các chữ a e i o u y có thể là nguyên âm nhưng cũng có thể là bán nguyên âm (hay bán phụ âm) tuỳ theo cách đọc từ của mỗi dân tộc. Mỗi từ trong tiếng Việt được gọi là âm tiết. Đây là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất của lời nói. Âm tiết trong tiếng Việt gồm âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu được biểu lộ thành không dấu hay dấu giọng. Theo truyền thống, âm tiết tiếng Việt được chia thành 2 phần: âm đầu và vần. Căn cứ vào phương thức kết thúc, âm tiết tiếng Việt được phân thành bốn loại: âm tiết mở, âm tiết nửa mở, âm tiết nửa khép và âm tiết khép.

Trong tiếng Việt có 2 bán nguyên âm: /w/ và /j/ có đặc tính giống như nguyên âm /u/ và /i/ nhưng được phát âm lướt, không mở đầy đủ như /u/ và /i/ [135]. Dấu giọng chỉ được đặt trên nguyên âm của một từ, vì khi “nguyên âm kết hợp với các âm tố khác, nó luôn tạo thành đỉnh của vần”[136].

Trong các vần oa oe, uê, uơ, uy người ta không phân biệt được các âm đầu (chữ o và u) chỉ là bán nguyên âm /w/, còn các âm sau mới là nguyên âm và là âm chính, nên dấu giọng phải đặt trên nguyên âm này. Trong từ hoà /hwà/: chữ o là bán nguyên âm nên dấu giọng phải đặt trên nguyên âm a, còn trong từ hào /hàw/: chữ o là bán nguyên âm.

Tương tự, trong từ héo /héw/: chữ o là bán nguyên âm, còn trong từ hoè /hwè/: chữ o cũng là bán nguyên âm. Trong các từ tếu /tếw/, tuế /twế/ chữ u là bán nguyên âm, nên dấu giọng được đánh trên nguyên âm ê. Trong các từ thìu /θìw/, thúi /θúj/ hai chữ i ở đây rất khác nhau: chữ đầu là nguyên âm, chữ sau là bán nguyên âm /j/, nên dấu giọng được đánh trên nguyên âm i ở từ đầu và nguyên âm u ở từ sau. Nếu so sánh hai từ thúi /θúj/ và thuý /θwí/ ta sẽ thấy hai chữ u rất khác nhau: chữ u trong từ đầu là nguyên âm, chữ u ở từ sau là bán nguyên âm, nên vị trí đặt dấu khác nhau. Trong tiếng Việt, nhiều khi có 3 chữ được coi là nguyên âm viết liền nhau, nhưng phân tích về mặt ngôn ngữ học, ta chỉ thấy có 1 nguyên âm hay nguyên âm đôi. Thí dụ: ngoài /ηwàj/, tiêu /tiêw/, điều /điềw/.

Chính vì dựa trên cách phiên âm theo ngôn ngữ học hiện đại mà Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ và bộ Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng như các sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đặt dấu giọng trên các nguyên âm trong các vần oa, oe, uê, uơ, uy như trong các từ hoà, hoả, hoá, hoạ, hoè, huệ, thuỷ, thuở. Khi đặt đúng dấu giọng như thế chúng ta mới giải thích cho những ai học các ngoại ngữ thấy sự hợp lý của các dấu giọng trong tiếng Việt.

Các âm trong từ còn được đo lường bằng dụng cụ để xác định đó là âm tiết chính hay âm đệm, mở hay khép, nửa mở hay nửa khép. Phụ âm còn được chia theo vị trí cấu âm thành âm môi-môi, môi-răng… hay theo phương thức cấu âm thành âm tắc, âm xát, âm tắc xát, âm rung, âm bật hơi…vì ngôn ngữ học hiện đại là một khoa học chính xác, căn cứ trên dữ liệu thực tế chứ không phải do thói quen hay do kiểu viết cân đối cho đẹp mắt. Ta có thể cảm nghiệm và phân biệt giữa nguyên âm và bán nguyên âm bằng cách khi đọc các vần oa, oe, uê, uơ, uy, môi và miệng chúng ta bó buộc phải chụm lại giống như nhau và đọc lướt nên đó là bán nguyên âm /w/.

Nếu so sánh với tiếng Anh ta cũng thấy có sự tương tự. Nhiều người Việt Nam cảm thấy khó phân biệt các âm với chữ viết, nhất là đối với bán nguyên âm /w/ và /ju/ trong các từ bắt đầu bằng chữ o hay u. Thí dụ: chữ o trong các từ onus, onyx, opinion… là nguyên âm, trong khi chữ o trong các từ one, once,.. là bán nguyên âm /w/. Hoặc chữ u trong các từ ulcer, umbrella, unbelief, unguis … là nguyên âm /ᴧ/ trong khi chữ u trong các từ unit, uniform, unicycle…là là bán nguyên âm /ju/. Điểm phân biệt này khá quan trọng để ta có thể dùng đúng các mạo từ a, an hoặc đọc đúng mạo từ the /ðe/ hay /ði/ trước các từ đó.

6.2. Thống nhất cách viết hoa các tên riêng

– Về cách viết tên riêng tiếng nước ngoài

Chúng ta cần tuân theo đúng Quy định số 240/QĐ, ngày 5/3/1984, của Bộ trưởng Bộ Giáo dục về Chính tả tiếng Việt, về Thuật ngữ tiếng Việt và quy định số 09/1998QĐ-VPCP, ngày 25/11/1998, của Văn phòng Chính phủ về Cách Viết hoa các Tên riêng.

Cụ thể là chúng ta viết nguyên ngữ theo tiếng Latinh, viết liền các âm tiết, không có dấu giọng và cũng không viết phiên âm trong ngoặc đơn. Thí dụ: Marcus, Aurelius, Washington, Bastille. Chúng ta giữ nguyên những địa danh đã được Việt hoá quá quen thuộc như: Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha… Chúng ta giữ hình thức chuyển ngữ sang tiếng Latinh đối với những tên bản ngữ không phải là tiếng Latinh như: Poutine, Araphat, Tagore như đã được Quy định trong các văn bản quốc tế của Liên Hiệp Quốc.

– Đối với các tên riêng của Công giáo Việt Nam, chúng ta nên theo sát cách viết đã được giới thiệu trong cuốn Từ điển Công giáo (gồm 2022 mục từ) của Uỷ ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, xuất bản năm 2016. Thí dụ: Giêsu Kitô, Maria, Clara…  thay vì viết Giê-su Ki-tô, Ma-ri-a, Cơ-la-ra…

– Về cách viết hoa các tổ hợp tên riêng

Chúng ta nên phân biệt  tổ hợp chữ hoa gồm nhiều thành tố. Viết hoa chữ đầu âm tiết tạo nên tên riêng (yếu tố 1), viết hoa âm tiết đầu của các từ bổ nghĩa (yếu tố 2), viết hoa tất cả các âm tiết tạo nên tên riêng (yếu tố 3). Thí dụ:

 

Yếu tố 1         Yếu tố 2                          Yếu tố 3

Bộ                  Văn hoá, Du lịch               Việt Nam

Văn phòng    Chính phủ                       Việt Nam

Nhà máy        Sản xuất Phích nước      Hoà Bình

Uỷ ban           Công lý và Hoà bình       Việt Nam

Hội  thánh     Tin lành                            Việt Nam

Ban                 Loan báo Tin mừng        Giáo xứ Trà Kiệu

 

Lời kết

Người tín hữu Công giáo Việt Nam chúng ta có quyền tự hào vì đã đóng góp vào việc phát minh ra chữ Việt và đã chịu biết bao đau khổ, bách hại, thậm chí dâng hiến cả mạng sống để bảo vệ những giá trị văn hoá cao quý của Công giáo. Tuy nhiên hình như chúng ta chưa biết bảo tồn và phát huy những giá trị của tiếng Việt và chữ Việt: rất nhiều sách báo Công giáo hiện nay không tuân thủ các quy tắc và tiêu chuẩn khoa ngôn ngữ học, chúng ta cũng chưa thúc đẩy việc sáng tác các thơ văn để có nhiều tác phẩm có giá trị văn học. Chúng ta cần cố gắng hơn nữa để khỏi thẹn với cha ông và có trách nhiệm nhiều hơn với thế hệ tương lai.

Câu hỏi gợi ý:

1. Bạn đã quan tâm thế nào với chữ viết của bạn?

2. Bạn nghĩ mình nên làm gì để cổ vũ cho việc phát triển văn học Công Giáo?

 

                                           Bài 19

        Thể thao như một lĩnh vực của

Tân Phúc Âm Hoá

 

Lời mở đầu

Chúng ta đã biết rằng thể dục được hiểu là hệ thống các động tác tập luyện, thường được sắp xếp thành bài nhằm giúp cho việc phát triển hài hoà của cơ thể, tăng cường và gìn giữ sức khoẻ; còn thể thao là những hoạt động nhằm nâng cao thể lực con người, thường được tổ chức thành các hình thức trò chơi, thi đấu theo những quy tắc nhất định.

Ở Việt Nam, nhiều linh mục, tu sĩ Công giáo ít quan tâm đến thể dục thể thao (TDTT) dù Công đồng Vaticanô II đã nhắn nhủ rằng: “Thể dục và các hoạt động thể thao giúp chúng ta giữ được quân bình trong tâm hồn của mỗi cá nhân cũng như của xã hội, và giúp chúng ta thiết lập được các mối tương quan huynh đệ giữa mọi người không phân biệt giai cấp, quốc gia hay chủng tộc. Vì thế, các Kitô hữu phải cộng tác vào việc đem tinh thần nhân bản và Kitô giáo thấm nhuần các sinh hoạt văn hoá tập thể, là những sinh hoạt đặc biệt của thời đại chúng ta” (x. CĐ.Vat II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 61).

Trong phạm vi bài này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sơ qua về hiện trạng TDTT trong cộng đồng tu trì để tìm ra những nguyên nhân tác động đến tình trạng này, tìm hiểu ích lợi của TDTT trong đời sống tu trì và những đường hướng để cổ vũ sinh hoạt TDTT trong cộng đồng linh mục hay tu sĩ để rồi qua đó ta hiểu được TDTT trong đời thường của người tín hữu.

1. Hiện trạng thể dục thể thao trong đời sống tu trì

1.1. Số liệu liên quan

Tính đến ngày 31/12/2012, cộng đồng giáo sĩ, tu sĩ VN hiện nay có trên 4.441 linh mục, 4.195 chủng sinh, 2.679 tu sĩ nam, 17.280 tu sĩ nữ với hàng ngàn cơ sở lớn nhỏ để phục vụ 6.560.879 tín hữu giáo dân. Số cơ sở được các linh mục tu sĩ phục vụ gồm trên 2.500 giáo xứ lớn nhỏ, 1.435 nhà trẻ, lớp học tình thương; 84 trung tâm văn hoá; 155 trung tâm lo cho di dân, sinh viên và gia đình; 110 trạm xá, bệnh viện; 23 trại phong và tâm thần; 70 trung tâm dạy  nghề… (x. Thống kê của Văn phòng Thư k‎ý Hội đồng Giám mục Việt Nam, năm 2013).

1.2. Những phương tiện chưa hợp l‎ý

Ngoại trừ 8 đại chủng viện trên toàn quốc có sân chơi thể thao cho các chủng sinh và khoảng một chục dòng tu nam lớn có sân chơi thể thao hay phòng tập thể dục cho các tu sĩ đang được đào tạo của dòng, còn hầu hết các cơ sở khác, nhất là các dòng tu nữ, đều không có sân chơi, không có phòng sinh hoạt để có thể tập thể dục hay kê một vài bàn bóng bàn cho các tu sĩ sử dụng.

Một số xứ đạo có khá nhiều đất trống bỏ hoang thay vì biến thành sân chơi cho thanh thiếu niên, hay có các phòng rộng lớn sinh hoạt giáo l‎ý mỗi tuần một ngày còn các ngày khác để không, có thể kê vài bàn bóng hay bàn đánh cờ vua cho các thanh thiếu niên. Nhiều tu viện có diện tích đất khá rộng, nhưng vẫn để trống đất hoặc làm vườn hoa, trồng cây cảnh trong khi các tu sĩ trẻ cần vận động thì lại thiếu sân chơi.

1.3. Thiếu ý thức và quan tâm

Tình trạng này bắt nguồn từ việc những người lãnh đạo các cộng đồng tu trì chưa ý thức được tầm quan trọng của TDTT trong việc huấn luyện một nền nhân bản toàn diện cho con người cũng như giá trị của những hoạt động TDTT trong đời sống tu trì. Công đồng Vaticanô II cũng nhắc nhở rằng: “Những phương tiện như TDTT sẽ không đem lại một nền văn hoá giáo dục toàn diện cho con người, nếu đồng thời con người không tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của văn hoá và khoa học về thể dục và thể thao đối với con người” (x. CĐ.Vat II, Gaudium et Spes, số 61).

Sự thiếu quan tâm về TDTT không bắt nguồn từ việc thiếu những phương tiện như sân bãi, dụng cụ TDTT, vì các cộng đồng tu trì có thể mua sắm hay xây dựng được, mà bắt nguồn từ việc không nhận ra tầm quan trọng của TDTT trong đời sống cá nhân cũng như tập thể, trong sinh hoạt thường ngày, cũng như hoạt động truyền giáo. Nhiều người có trách nhiệm trong việc đào tạo đời tu đã không quan tâm tới vấn đề sức khoẻ toàn diện của những người mình có trách nhiệm, không đưa TDTT vào chương trình đào tạo, không đưa việc tập luyện thể dục và chơi thể thao vào chương trình sống hằng ngày. Chỉ quan sát đời sống thực tế hay chương trình sống trong cộng đồng tu trì ta cũng thấy ngay được điều đó.

Nhiều tu sĩ trẻ muốn chơi thể thao mà cũng không dám chơi vì sợ bị chê trách, và nếu có chơi thì cũng chẳng biết chơi thế nào cho đúng kỹ năng và kỹ thuật của mỗi môn. Chúng tôi được biết một ít nữ tu trẻ tận dụng những phút rảnh rỗi hiếm hoi trong ngày chơi cầu lông 10-15 phút chỉ để cho ra mồ hôi và tắm cho đỡ lạnh, vì nhà dòng không có sẵn nước nóng. Một vài dòng nữ lớn cũng mua một vài bàn bóng bàn nhưng do không có giờ chơi rõ ràng, không được ai tập luyện nên cuối cùng cũng để không, hoặc xếp vào góc nhà.

1.4. Hậu quả

Hầu hết các linh mục, tu sĩ nam trong thời gian được đào đạo ở chủng viện hay học viện, đã rất tích cực tham gia các hoạt động TDTT, nhưng sau khi chịu chức linh mục hay khấn trọn đời rồi lại không còn tập luyện nữa. Nhiều người nêu lý do là phải đảm nhận nhiều trách nhiệm hay công tác mục vụ nên không sắp xếp được thời gian tập luyện cho chính mình hay chơi chung với người khác. Nhưng l‎ý do chính yếu vẫn là thiếu ý  thức về tầm quan trọng của TDTT trong đời sống tự nhiên cũng như siêu nhiên của mình.‎ Hậu quả của việc không sinh hoạt TDTT thể hiện rõ qua hình thể bên ngoài của nhiều linh mục, tu sĩ không còn gọn gàng, động tác không còn nhanh nhẹn, sức khoẻ suy yếu nhanh chóng và mang nhiều bệnh tật. Đó là chưa kể đến những căng thẳng trong đời sống chung hay những dồn nén sinh l‎ý không được hoá giải nhờ hoạt động TDTT đã gây nên nhiều thiệt hại lớn lao khác như chứng thủ dâm, đồng tính luyến ái, nghiện trò chơi trực tuyến hay nghiện phim ảnh đồi truỵ…

1.5. Tình trạng chung của cộng đồng xã hội

Tình trạng thiếu sinh hoạt TDTT trong đời tu hiện nay cũng là tình trạng chung của cộng đồng xã hội. Đời sống kinh tế quốc dân còn nghèo, nên việc xây dựng các sân vận động để tạo điều kiện cho dân chúng chơi thể thao hay tập thể dục có thể được cho là một nhu cầu chưa cần thiết đối với cộng đồng, vì có nhiều nhu cầu khác đáng quan tâm hơn, hoặc trở thành nhu cầu xa sỉ đối với người nghèo. Mọi khoản thu nhập của đa số người dân Việt Nam hiện nay hầu như được dùng cho việc ăn, uống (46%); đi lại và bưu điện (17,22%); giáo dục (7,83%); đồ dùng (6,42%); nhà ở – điện nước – vệ sinh (6,07%); y tế (5,27%); may mặc (3,63%) và các chi phí khác (3,85%). Người dân chỉ dành cho mục văn hoá, thể thao, giải trí có 3,87% thu nhập, trong đó hầu hết cho văn hoá và giải trí, còn thể thao dường như là con số không (x. Cục Thống kê, Thống kê TP.HCM 2010, tr.324).

2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng

2.1. Những l‎ý do cụ thể

Vì TDTT là những yếu tố cần thiết trong việc đào tạo một nền nhân bản toàn diện cho con người, chứ không phải chỉ riêng cho đời tu hay đời sống Kitô hữu, nên sinh hoạt TDTT được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng xã hội. Lịch sử văn minh nhân loại đã minh chứng điều đó, khi các môn thể thao được tổ chức ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Công nguyên trong nền văn minh Hy Lạp. Còn ở châu Á, các nhà sư Thiếu Lâm, các ni cô +`phái Nga Mi ở Trung Hoa tập võ để vừa rèn luyện thân thể vừa hoạt động cứu đời, là những thí dụ điển hình của hoạt động thể thao trong đời tu.

Trong thực tế hiện nay, người ta thấy các giáo sĩ và tu sĩ ít quan tâm đến hoạt động TDTT, dù những hoạt động này là một phần cơ bản trong đời sống con người và sinh hoạt xã hội. Thực tế này có thể bắt nguồn từ quan niệm về đời tu như một sự tách biệt với đời thường trong xã hội. Tất cả các sinh hoạt hằng ngày của đời tu tập trung vào lĩnh vực tri thức với những giờ học, giờ đào tạo tinh thần; vào lĩnh vực thiêng liêng với những giờ phụng tự và cầu nguyện; và vào lĩnh vực mục vụ tông đồ với những công việc thuộc trách nhiệm như coi giáo dân, dạy trẻ…, nhưng hầu như bỏ quên hay xem thường lĩnh vực thể chất với những việc ăn uống, ngủ nghỉ, TDTT…

Tuy nhiên, đây có thể là một sự lầm lẫn quan trọng trong công tác giáo dục và đào tạo hiện nay, vì lĩnh vực thể chất được coi như nền tảng để xây dựng và phát triển ba lĩnh vực kia. Vì thế, cách ngôn người Rôma từ ngàn xưa đã có câu: “Hồn lành trong xác mạnh” (Mens sana in corpore sano). Nếu chúng ta nghiên cứu Sắc lệnh Đào tạo Linh mục (SLĐTLM) (Optatam Totius) và Sắc lệnh Canh tân Thích nghi Đời sống Dòng tu (SLCTTTĐSDT) (Perfectae Caritatis) của Công đồng Vaticanô II, chúng ta thấy lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức vì không trực tiếp nhắc đến TDTT trong công tác đào tạo đời tu. Có thể đây cũng là một l‎ý ‎do để những nhà đào tạo không đưa TDTT vào chương trình đào tạo cơ bản chăng?

Từ đó, những người có trách nhiệm trong các chủng viện và học viện cũng chưa quan tâm đủ đến những giờ tập thể dục, chơi thể thao, giải trí trong chương trình sống hằng ngày. Người ta coi thường việc ăn uống: ăn thế nào cũng được, uống thế nào cũng xong, mà không tính toán lượng thực phẩm có đủ chất bổ dưỡng cho sinh hoạt hằng ngày hay không; không dạy cách ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi như những bài học cơ bản; không quan tâm đến việc xây dựng những nhà vệ sinh cho hợp l‎ý, hoặc cung cấp đủ những phương tiện vệ sinh cần thiết, đủ nước nóng trong mùa lạnh… cho các thành viên.

Hơn nữa, người ta cũng quên đi tính chất cộng đồng xã hội trong những trò chơi thể thao, nên việc thể thao trong đời tu hiện nay chỉ còn mang tính tự phát, cá nhân riêng lẻ. Trong khi đó, xã hội hiện nay tôn vinh những vận động viên TDTT như những anh hùng của đất nước trong những cuộc tranh tài thế giới hoặc giới trẻ tôn vinh những vận động viên nổi tiếng như những thần tượng. Tôi nhớ khi còn được đào tạo tại Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X ở Đà Lạt trong những năm 1966-1975, các cha Dòng Tên nhắc nhở chúng tôi tầm quan trọng của TDTT trong đời sống tu trì, khi đau ốm chúng tôi có thể bỏ dự Thánh lễ không cần xin phép nhưng không bao giờ được phép tự động bỏ giờ chơi ban chiều.

Tóm lại, việc coi thường TDTT trong đời tu hiện nay bắt nguồn từ sự thiếu ý thức về giá trị cũng như tầm quan trọng của TDTT trong việc gìn giữ sức khoẻ, trong sinh hoạt cộng đồng xã hội cũng như trong công tác loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, chúng ta tự hỏi nguyên nhân sâu xa nào dẫn đến tình trạng này.

2.2. Nguyên nhân sâu xa là ảnh hưởng của thuyết Nhị Nguyên

Nhiều linh mục, tu sĩ vẫn còn giữ quan niệm Nhị Nguyên sai lạc của hàng chục thế kỷ trước đây: coi thường thân xác, cho rằng thân xác thuộc về ma quỷ và tinh thần mới thuộc về Thiên Chúa; thân xác vật chất thì nặng nề, chiều theo những dục vọng xấu xa nên cần phải hãm mình ép xác, ăn uống kham khổ để làm chủ được dục vọng, cho tinh thần nhẹ nhàng thanh thoát, có thể vươn lên và bay bổng tới Thiên Chúa.

Do đó, TDTT bị coi là những lĩnh vực thuộc về thể xác không đáng quan tâm, thậm chí còn bị coi là nguy hiểm, tội lỗi vì đó là những hành vi chiều chuộng thân xác. Quan niệm này đã bị Công đồng Vaticanô II lên án và xác định: “Con người duy nhất với xác và hồn. Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất. Vì thế, nhờ con người, những yếu tố ấy đạt được tới tuyệt đỉnh của chúng và tự do dâng lời ca tụng Đấng Tạo Hoá. Vậy con người không được khinh miệt đời sống thể xác. Trái lại, con người phải coi thân xác mình là tốt đẹp và đáng tôn trọng vì thân xác ấy do Chúa tạo dựng và được sống lại vào ngày sau hết” (x. CĐ.Vat II, Gaudium et Spes, số 14).

Cũng từ quan niệm Nhị Nguyên này, nhiều người vẫn kể thân xác là một trong ba kẻ thù: “ma quỷ, thế gian, xác thịt “. Họ không quan tâm đến sự hợp nhất linh hồn và thân thể (x. GLHTCG, các số 327, 360, 362-368, 382). Người ta sợ rơi vào não trạng tôn thờ thân xác, tôn thờ những ngẫu tượng, thần tượng trong thể thao mà nhiều bạn trẻ đang chạy theo và tôn sùng những vận động viên nổi tiếng hiện nay, nhất là muốn loại bỏ não trạng chọn lọc người khoẻ, đẹp và loại bỏ người yếu, xấu vì có thể dẫn tới việc làm băng hoại các tương quan giữa con người (x. GLHTCG, số 2289).

2.3. Cũng từ quan niệm Nhị Nguyên này người ta cho TDTT là thừa thãi vì mất giờ, mất sức, tốn tiền. Nhiều tu sĩ cho rằng thể thao chỉ thích hợp cho người ở ngoài đời, có điều kiện, nhưng không hợp với đời tu, vì các môn thể thao phục vụ thân xác, thiếu sự điều độ nết na khi các vận động viên hay những người chơi thể thao phải ăn uống tẩm bổ hay mặc những quần áo thể thao có vẻ khoe những phần thân thể nhạy cảm, hoặc lộ liễu của từng môn chơi.

3. Ích lợi của thể dục thể thao

3.1. Đào tạo toàn diện con người

Con người toàn diện gồm nhiều lĩnh vực: thể chất và tinh thần, nội tâm và ngoại giới, cá nhân và cộng đồng, tự nhiên và siêu nhiên. Thể dục và thể thao mang lại rất nhiều những ích lợi cho việc phát triển toàn diện con người và xã hội mà những người sống đời tận hiến không thể xem thường. Chúng ta có thể tóm tắt các ích lợi chính sau đây:

3.1.1. Về lĩnh vực thể chất và tinh thần

TDTT giúp tăng cường sức khoẻ thể xác và tinh thần. Khi con người tập thể dục, chơi thể thao các bộ phận trong cơ thể đều được vận động và phối hợp hài hoà, dẫn đến việc tăng cường sức khoẻ, chống lại bệnh tật và thích nghi được với sự thay đổi thời tiết. Nhờ đó, con người sống an vui và hạnh phúc, ổn định cả về thể xác cũng như tinh thần.

Tôi còn nhớ cách đây nhiều năm, khi đến giảng tĩnh tâm năm cho các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Cần Thơ tại Sóc Trăng. Thấy các chị em da mặt xanh xao, sức khoẻ suy ‎yếu nên tôi đã đề nghị với chị Tổng Phụ trách khuyến khích các chị em tập thể dục và chơi thể thao. Sau tuần tĩnh tâm, chị Tổng Phụ trách đã làm 1 sân bóng chuyền, mua 2 bàn bóng bàn để các chị em chơi thể thao. Một vài khoảng trống trong sân vườn dành cho các chị em cao tuổi chơi bóng ném hoặc cầu lông. Kết quả là khi trở lại giảng tĩnh tâm năm sau cho các chị em, tôi thấy gương mặt chị em hồng hào hơn, nhiều chị em trước đây bị bệnh đã khoẻ mạnh hơn. Chị Tổng Phụ trách cho biết số tiền dành để mua thuốc, chữa bệnh của chị em giảm xuống rất nhiều, so với số tiền chi cho việc làm các sân bóng và mua dụng cụ thể thao vẫn còn dư. Cuộc sống trong tu viện cũng thay đổi hẳn: các chị em vui tươi, cởi mở và thành công hơn trong lĩnh vực học hành, tu đức cũng như xã hội, nhất là khi các chị nhận lời tham gia giải bóng chuyền nữ của thị xã Sóc Trăng.

3.1.2. Về lĩnh vực nội tâm và ngoại giới

Con người khám phá ra mình hiện hữu như một cái tôi độc lập, có khả năng hiểu mình, làm chủ mình và tự quyết về mình (x. HTXHCG, số 131). Khoa tâm l‎ý học cũng khám phá ra cấu trúc phức tạp của tinh thần với những tầng lớp: ý thức, tiềm thức và vô thức tác động lên nhau, cũng như những khả năng lạ lùng của con người với trí nhớ, trí hiểu, trí tưởng tượng, ‎ý chí, cảm năng, hoạt năng, khiến cho mỗi người trở thành độc đáo với sứ mạng riêng. Chính khi tập thể dục, chơi thể thao, con người phát triển những khả năng tiềm tàng đó, nhờ việc luyện tập thường xuyên và chơi chung với nhau.

Ngoài ra, việc luyện tập TDTT còn giúp cho con người phát triển những đức tính nhân bản cần thiết cho đời sống tu trì như đức khiết tịnh, vâng phục, bác ái. Khi giảng tĩnh tâm cho một số dòng tu, nhiều lần người phụ trách tu viện yêu cầu tôi nói về đức khiết tịnh và đồng tính luyến ái. Tôi giới thiệu phương thức TDTT như một yếu tố quan trọng giúp giảm bớt những đòi hỏi của dục tính, dẫn đến việc thủ dâm, vì sức lực tràn trề của tuổi trẻ được giải toả thành những hoạt động tiêu hao năng lượng trong thể dục, thể thao (x. CĐ Vat.II, Sắc lệnh Đào tạo Linh mục, số 10; Sắc lệnh Canh tân Dòng tu, số 12).

Các quy luật trong thể dục và nhất là thể thao cũng yêu cầu người tập phải tuân thủ cách chặt chẽ. Và đây cũng là một sự trợ giúp cho đức tính vâng phục của đời tu. Khi chơi thể thao, người ta cần phải biết chơi chung với nhau, cộng tác với nhau, nhường nhịn nhau, cùng theo đuổi một chiến thuật thì mới có thể cùng nhau chiến thắng. Đó là phương thức giúp luyện tập và thể hiện đức bác ái trong đời tu.

Thể dục và thể thao còn giúp người ta luyện tập đức kiên nhẫn, hiền hoà, cao thượng, bình tĩnh khi đánh hỏng hay bị thua thay vì cau có, chửi bới, la hét bạn bè hoặc chơi xấu, giở những thủ đoạn để chiến thắng đối phương. Khi còn sống ở Tiểu Chủng viện thánh Phanxicô Xaviê thuộc Giáo phận Bùi Chu trong những năm 1959-1965, nay là Trường Trung học Bùi Thị Xuân, ở đường Bùi Thị Xuân, Quận 1, TP.HCM, mỗi tháng các chủng sinh được nghe đọc về Quy luật Sống, tôi nhớ mãi điều luật khi chơi thể thao: “Chơi sao cho có tinh thần hiệp sĩ và đức bác ái để thắng không kiêu, bại không nản”. Với tinh thần này, đội bóng chuyền của trường tôi hồi đó với các anh như Lm. Lê Quang Đăng, Lm. Đỗ Duy Thản, anh Lê Đình Bảng… đã vô địch các trường trung học của thành phố Sài Gòn trong nhiều năm liền.

3.1.3. Về lĩnh vực cá nhân và cộng đồng

TDTT là phương cách giúp con người thể hiện tinh thần tập thể và tôn trọng những mối tương quan trong xã hội như người ta phải tôn trọng các vị trí, vai trò của các cá nhân trong một sân bóng: người thuộc hàng tiền vệ giữ vai trò tấn công, người ở hàng hậu vệ có nhiệm vụ phòng thủ… Qua việc tập thể dục và chơi thể thao, người ta cũng biết tôn trọng vai trò và thể hiện trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội. Hơn nữa, người ta còn tập được tinh thần lãnh đạo khi biết phân công nhiệm vụ thích hợp cho đồng đội trong những trận đấu, cũng như phân chia sức lực cho những đường đua dài để chiến thắng.

3.1.4. Về lĩnh vực tự nhiên và siêu nhiên

TDTT giúp cho con người làm chủ bản thân, nhận ra giá trị cũng như những giới hạn của mình để hướng tầm nhìn về Chúa là nguồn sức mạnh và sự sống, nguồn hạnh phúc và chân thiện mỹ. TDTT tập cho con người biết làm chủ bản thân, với những tình cảm, thời giờ, tài năng, và cả những tham vọng, dục vọng. Muốn thăng tiến trong lĩnh vực này, con người phải biết kiềm chế để chơi đẹp trên sân bóng, để không ham chơi đến độ bỏ học hành làm việc, phải biết sống điều độ, không “rượu chè, trai gái” để giữ sức khoẻ cho những trận đấu. Khi bị thua thiệt hay thất bại, người chơi vẫn tin vào Chúa biết rõ mọi sự để tha thứ và cảm thông cho sự yếu đuối, bất toàn của con người như khi bị bắt lỗi sai, tính điểm thua trong trận đấu, cũng như giữ được bình tĩnh và cao thượng mỉm cười với bạn bè khi họ đánh hỏng, làm mất cơ hội thắng điểm.

Tôi còn nhớ mãi lần giúp tĩnh tâm năm cho các linh mục Giáo phận Cần Thơ, vào các buổi chiều trong tuần tĩnh tâm, ban tổ chức cho các cha chơi và thi đấu thể thao. Thời đó, Đức Hồng y Gioan Baotixita của Tổng Giáo phận TP.HCM hiện nay còn làm cha giám đốc Đại Chủng viện Thánh Qu‎ý ở Cái Răng, Cần Thơ. Vui nhất là các anh em được sống lại tình thương yêu trên sân bóng đá với những màn đá hụt của các cha già hay té ngã của những anh em bụng to quá khổ! Những căng thẳng, mỏi mệt của đời mục vụ hay của tuần tĩnh tâm biến đi đâu hết! Chỉ còn tiếng cười, chỉ còn niềm vui!

3.2. Tạo điều kiện cho việc loan báo Tin Mừng

3.2.1. Trong dòng lịch sử: TDTT tuy không phải là đối tượng trực tiếp hay nội dung Tin Mừng nhưng có thể là phương tiện đóng góp trực tiếp vào việc loan báo Tin Mừng. Ta có thể kiểm chứng điều này trong dòng lịch sử.

Các vận động viên trong các cuộc thi đấu Olympic Hy Lạp hay Rôma đều cầu khẩn các thần linh của mình trước khi thi đấu và nếu họ thắng giải trong cuộc tranh tài, thì dân chúng công nhận thần linh đó mạnh hơn đối phương. Đây cũng là một trong các l‎ý do khiến người tín hữu Công giáo thời xưa xa lánh sân vận động. Ở Trung Hoa, các vị sư phái Thiếu Lâm hay các ni sư của nhiều hệ phái khác nhau luyện tập võ nghệ, dạy võ cho quần chúng vừa để cho mình khoẻ mạnh vừa bênh vực kẻ yếu trong xã hội, cũng là những tấm gương sáng thúc đẩy quần chúng tìm hiểu và theo đạo Phật.

Ở Việt Nam, vào những thời kỳ khó khăn và bị bách hại, đạo Công giáo được truyền bá nhanh chóng một phần cũng nhờ các nhà truyền đạo thời đó biết lợi dụng lòng ham chuộng TDTT của quần chúng. Vào các chiều thứ Bảy, Chủ Nhật, cộng đồng Công giáo tổ chức thi các trò chơi như đi cầu tre, bắt vịt dưới ao nhà thờ, kéo dây, đánh cầu… và cho cả lương dân tham dự. Mọi người đều cười vui khi thấy các chàng trai bị té xuống hồ nước vì trơn trượt trước khi nắm được phần thưởng treo ở đầu cây tre cắm giữa hồ. Trong các buổi chơi đó lương dân thấy được đời sống vui tươi, chan hoà tình bác ái của người Công giáo, cảm phục và nhiều người đã theo đạo. Ngay từ năm 1885, tỷ lệ dân số Công giáo Việt Nam đã đạt tới 7% so với dân số cả nước, tuy nhiên cho tới ngày nay, sau 128 năm, tỷ lệ ấy không những không tăng mà còn đang có chiều hướng giảm (x. Niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2005, NXB Tôn Giáo, 2005, tr.195-199).

3.2.2. Ngày nay, các vận động viên thắng giải trong các cuộc thi đấu thể thao quốc tế hay quốc gia vừa là những anh hùng nói lên sự ưu việt của dân tộc hay địa phương mình, vừa là gương mẫu cho các thế hệ khác noi gương. Do đó, ta không lạ gì khi thấy nhiều dân tộc, nhiều tổ chức dùng TDTT như phương tiện để quảng cáo cho đất nước hay tổ chức của mình. Tại sao Giáo hội Công giáo, nhất là Giáo hội Việt Nam không dùng phương tiện này để loan báo Tin Mừng?

3.2.3. Chúa chúng ta không muốn con người rơi vào lầm lạc của phái Nhị Nguyên hay phái Khắc Kỷ để coi thường thân xác, nên đã cho Con của Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhận lấy xác thịt (x. Ga 1,14) trở thành Đức Giêsu Kitô, trở thành con người giống chúng ta (x. Pl 2,7) trong mọi sự, chỉ trừ tội lỗi (x. Dt 4,15; CĐ. Vat.II, Gaudium et Spes, số 22), để cứu độ con người toàn diện. Nếu Đức Giêsu đã trở nên giống con người trong mọi sự thì chúng ta được quyền tưởng tượng trẻ Giêsu cũng chơi đánh cầu, đánh khăng, đá bóng như các trẻ em cùng thời. Người coi trọng thân xác nên đã hoá bánh ra nhiều cho kẻ đói ăn, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ thay vì hô hào ăn chay, hãm mình phạt xác như các luật sĩ, biệt phái và các môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả thường làm (x. Mt 9,14-17). Người muốn các môn đệ mình phải khoẻ mạnh cả về tinh thần lẫn thể xác. Người nói: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11,12). Cuối cùng, Người đã chịu đóng đinh, chết nhục nhã và sống lại bằng chính thân xác ấy vì muốn dạy ta biết dùng thân xác mình để mang ơn cứu độ cho muôn loài.

Thánh Phaolô, có lẽ qua chính kinh nghiệm bản thân của mình, nhiều lần nhắc đến thể thao: “Anh em không biết sao, trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng. Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều… Vậy tôi đây cũng chạy như thế, chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không khí” (1Cr 9,24-27). Hoặc: “…vì tôi đã không chạy uổng công và đã không lao nhọc vô ích” (Pl 2,16). Hay: “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta” (Dt 12,1).

3.2.4. Tuy đã nhận được gương sống của chính Đức Giêsu và lời dạy bảo của thánh Phaolô, nhưng tại sao người tín hữu Công giáo vẫn quay lưng với TDTT? Câu trả lời phải tìm lại trong lịch sử của chính TDTT cũng như lịch sử hình thành Kitô học.

Người Công giáo ngại ngùng với thể thao, xa lánh sân vận động vì trong suốt 3 thế kỷ đầu cho đến năm 313, (khi hoàng đế Constantinus ra sắc chỉ Milan nhìn nhận Công giáo là tôn giáo hợp pháp trên toàn đế quốc Rôma), thể thao không còn mang tính tranh tài trong sáng của Olympic Hy Lạp, nhưng trở thành nỗi ô nhục và kinh hoàng cho tín hữu Công giáo. Sân vận động là nơi hành hình tín hữu, các thanh niên trở thành những tên nô lệ phải giác đấu cho đến chết, các phụ nữ và trẻ em thành miếng mồi ngon cho thú dữ cắn xé để mua vui cho quần chúng trên khán đài.

Lịch sử hình thành Kitô học còn giúp ta hiểu tại sao cho đến thế kỷ 20, Công giáo vẫn bị ảnh hưởng nặng nề của thuyết Nhị Nguyên vì trong 5 thế kỷ đầu tiên, các nhà thần học đề cao thần tính của Chúa Giêsu và cho nhân tính của Người nhỏ bé như giọt mật tan trong đại dương bao la của thần tính. Sau những tranh cãi gay gắt của các trường phái về sự phối hợp giữa hai bản tính nơi Đức Giêsu và với định tín của Công đồng Calcêđônia năm 451, thần học Công giáo không dám nói về Đức Giêsu cho đến giữa thế kỷ 20, ngoại trừ một ít phát biểu của vài vị thánh nổi tiếng như Augustinô, Tôma Aquinô. Theo các nhà thần học này chỉ có Đức Giêsu nhận lấy bản tính nhân loại tốt lành trước khi nguyên tổ Adam phạm tội, còn mọi người đều mang bản tính đã bị hư hỏng vì tội nguyên tổ, nên thân xác là nguồn gốc mọi tai hoạ và hư hỏng của con người. Công đồng Vaticanô II và sách Giáo l‎ý của Hội thánh Công giáo đã ‎giải thích cho chúng ta hiểu Đức Giêsu mang lấy bản tính con người sau khi Adam phạm tội (x. Dt 4,15; CĐ. Vat.II, Gaudium et Spes, số 22; GLHTCG, số 461-483), để mời gọi ta qu‎ý trọng thân xác của mình.

3.2.5. Hơn nữa, người Công giáo chỉ có thể làm chứng cho Tin Mừng về Ngôi Lời Nhập Thể, làm chứng cho Chúa là nguồn chân thiện mỹ nếu chúng ta dám thay đổi cách sống, từ bao nhiêu thế kỷ nay đã bị ảnh hưởng bởi thuyết Nhị Nguyên và phái Khắc Kỷ để coi thân xác là thù địch của linh hồn thay vì coi thân xác là phương tiện mang lại ơn cứu độ. Cho đến đầu thế kỷ XX, nhiều dòng tu vẫn có những luật lệ hết sức nghiêm khắc về cách ăn uống, hãm mình, đánh tội để kiềm chế những dục vọng. Với một thân xác yếu nhược tàn tạ, nhiều tu sĩ cũng không đủ điều kiện để phát huy những tài năng tinh thần. Nói như thế không phải chúng tôi cổ vũ cho một đời sống phóng túng, không cần đến việc hy sinh, hãm mình. Quả thực, việc ăn chay hãm mình thật sự vẫn có giá trị trong đời tu để giúp ta gắn bó mật thiết với Đức Kitô như vị Hôn Phu nhưng không phải theo hướng thù địch với thân xác.

Người ngoài Công giáo làm sao có thể nhận ra Thiên Chúa là nguồn mọi sự tốt đẹp qua những thân xác yếu đuối, khuôn mặt xanh xao, cơ thể bệnh tật dù đang ở tuổi thanh niên hay trưởng thành? Đời sống tu sĩ với chương trình sống điều độ, nếu được đào luyện TDTT, chắc chắn sẽ giúp cho người linh mục, tu sĩ nam nữ có sức khoẻ dẻo dai để học hành làm việc, phục vụ tha nhân, có thân thể cân đối, ngay cả xinh đẹp, để có sức thu hút người khác đến với Đức Kitô. Nhất là đối với con người có khuynh hướng duy thực, duy nghiệm hiện nay thì thân xác tươi trẻ khoẻ mạnh chính là hình ảnh sống động của Tin Mừng. Cách ngôn Việt Nam ta có câu: “Xem mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon” kia mà!

Hơn nữa nếu các xứ đạo, tu viện biết lợi dụng những khoảng đất trống cho TDTT để quy tụ thanh thiếu niên ham thích vận động cũng như những người già lão mong muốn tập những bài thể dục dưỡng sinh, thì những nơi ấy chính là điểm gặp gỡ và giới thiệu Đức Kitô cho người khác một cách sống động và hiệu quả, có thể còn hiệu quả hơn cả những buổi cầu nguyện hình thức, những bài giáo l‎ý ‎khô khan hoặc trình diễn thánh ca một đôi lần trong năm. Những cuộc thi đấu TDTT tại các xứ đạo hoặc dòng tu sẽ trở thành những dịp rao giảng Tin Mừng về mầu nhiệm Nhập Thể và nhập thế của Ngôi Lời một cách rõ ràng và hiệu quả cho người ngoài Công giáo.

Chúng ta hãy tưởng tượng qua việc đào tạo bài bản, qua việc tập luyện thường xuyên về TDTT, những linh mục, tu sĩ vừa trở thành huấn luyện viên cho các bộ môn trong xứ đạo hay cộng đồng xã hội, vừa có thể trở thành những vận động viên tham gia vào hoạt động TDTT của địa phương. Điều này sẽ giúp cho dân chúng hiểu rõ hơn về việc hội nhập của Tin Mừng vào đời sống văn hóa xã hội. Hơn nữa, với tinh thần tập luyện của người tín hữu cũng như với ơn Chúa, chúng ta có thể chiếm được những giải thưởng cao qu‎‎ý như vô địch toàn thành, vô địch quốc gia. Lúc ấy ảnh hưởng của những vận động viên Công giáo hay của dòng tu sẽ là lời mời gọi người khác, nhất là các thanh thiếu niên, đến với Đức Kitô hay đến với đời sống tu trì.

4. Làm gì để cổ vũ TDTT trong cộng đồng tín hữu?

Chúng tôi xin đưa ra vài đường hướng cơ bản để các cộng đồng tu trì có thể tự tìm câu trả lời cụ thể cho cộng đồng mình.

Đưa TDTT vào chương trình đào tạo rõ ràng: Mỗi năm mời các chuyên gia TDTT để huấn luyện cho linh mục, chủng sinh, tu sĩ một số môn thể thao: học cách chơi, luật chơi, tổ chức chơi trong xứ đạo như cầu lông, bóng bàn, bóng ném, bóng đá, cờ vua,… và  xem TDTT là phương tiện truyền giáo hữu hiệu cho giới thanh thiếu niên vì TDTT phổ biến hơn đối với lương dân và cộng đồng xã hội.           

Đưa TDTT vào chương trình sống hằng ngày, để tạo điều kiện cho mọi người trong cộng đồng, nhất là đối với các người trẻ, mỗi ngày có 45 phút hoặc một giờ chơi thể thao, cộng thêm những phút tập thể dục ban sáng. Trong giờ thể thao mọi người đều được yêu cầu phải chơi, trừ trường hợp đau bệnh. Người yếu, cao tuổi có thể đi bộ. Mùa thi không được bỏ chơi để học bài.

Tạo điều kiện để chơi: Mua bóng, vợt, lưới, cầu… Nếu cộng đồng có khả năng, có thể làm cả sân chơi, nhà chơi, tổ chức các đội bóng (bóng chuyền, bóng đá, bóng bàn, cầu lông, cầu mây…) và khuyến khích thi đấu với các cộng đồng khác.

Tạo điều kiện để biết chơi, chơi hay, chơi đẹp: nhờ những huấn luyện viên thể thao vào biểu diễn hoặc cùng chơi để huấn luyện cho các chủng sinh, tu sĩ thấy cái hay cái đẹp của những môn thể thao mình muốn tập, giới thiệu những đoạn phim về TDTT (có rất nhiều trên mạng internet).

– Các bề trên dòng tu, các linh mục coi xứ đạo nên tham gia trực tiếp hay gián tiếp các hoạt động TDTT, khi có dịp, nhằm cổ vũ tinh thần “chơi cho khoẻ để phục vụ Chúa và tha nhân” thay vì có thái độ lãnh đạm, hoặc ngăn cấm.

Tổ chức các giải thi đấu giữa các tu viện, giáo xứ, giáo phận về những bộ môn thể thao có nhiều quần chúng tham gia như: bóng bàn, bóng chuyền, bóng đá, cầu lông, cầu mây… để tạo điều kiện gặp gỡ, giao lưu giữa các cộng đồng trong và ngoài Công giáo. Các giải này có phần thưởng, có sự tham dự của lãnh đạo Giáo Hội.

Tổ chức các buổi thuyết trình, hội thảo về các đề tài liên quan đến TDTT trong lĩnh vực đào tạo nền nhân bản toàn diện, lĩnh vực truyền giáo, lĩnh vực tu đức, trong việc thể hiện 3 Lời Khấn, trong mầu nhiệm Nhập Thể và nhập thế của Ngôi Lời Thiên Chúa… để gây ‎ý thức cho cộng đồng.

Kết luận

Niềm mơ ước của chúng tôi là mỗi linh mục, mỗi tu sĩ, mỗi Kitô hữu qua TDTT, sẽ trở thành hình ảnh sống động của Chúa Kitô, thu hút người khác đến với Chúa Cha bằng chính con người khoẻ mạnh, tốt đẹp, cởi mở, quảng đại, đầy quyền năng như Đức Giêsu.

 

Bài 20

Suy nghĩ về cái chết

Lời mở

Nói đến cái chết thì ai cũng sợ hãi, kể cả những người can đảm sẵn sàng hy sinh  mạng sống vì đại nghĩa, bởi vì chết là như đi vào cõi tiêu diệt, không còn hiện diện, là bị quên lãng, bỏ lại tất cả không mang theo được gì. Nhưng hằng ngày ta phải đối mặt với cái chết nên cần tìm hiểu xem: chết là gì, cái chết có thật không, có đáng sợ không và làm thế nào để ta có thể chết một cách hào hùng, thánh thiện như các thánh tử đạo Việt Nam hay như cha ông ta đã bao lần hy sinh mạng sống để bảo vệ quê hương.

1. Chết là gì?

Theo định nghĩa truyền thống, chết là khi tim ngừng đập và không còn hô hấp, tiếp theo là sự hư hỏng và phân huỷ của cơ thể. Tuy nhiên, với các kỹ thuật y khoa hiện đại săn sóc người hấp hối, người ta có thể duy trì hoạt động của các cơ quan hô hấp, tuần hoàn trong khi các chức năng não đã bị mất một cách vĩnh viễn. Người bệnh chỉ duy trì một đời sống thực vật, vô tri giác, hôn mê, kéo dài có thể vài năm. Do đó ranh giới giữa sự sống và cái chết ngày càng trở nên mờ nhạt[137].

Vì thế, người ta phân biệt chết lâm sàng và chết não. Chết lâm sàng là khi các phương pháp khám lâm sàng cho phép xác định là chết với các dấu hiệu như tim ngừng đập, phổi ngừng thở. Chết não là khi dùng máy đo hoạt động của não, người ta thấy đường biểu diễn sóng não chỉ còn là một đường thẳng, chứng tỏ não không còn hoạt động, các mô bắt đầu phân huỷ. Căn cứ vào tiêu chuẩn chết não, người đó được cho là chết thật và từ đó mới được phép lấy đi các cơ quan có thể còn sống của họ như gan, thận, tim… để cấy ghép cho những người khác. Như thế, chết theo khoa học là chấm dứt tất cả các chức năng sinh lý.

Cái chết bắt nguồn do bệnh tật, do chấn thương như tai nạn, do thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết và cuối cùng là do tuổi già. Người có tuổi thọ cao nhất trên thế giới hiện nay là cụ bà Jeanne Calment thọ 122 tuổi [138] . Với những tiến bộ của khoa học trong vài chục năm nữa, người ta có thể kéo dài tuổi thọ đến 150 hay 200 năm. Nhưng có một điều chắc chắn là ai cũng sẽ chết!

2. Cái chết có thật không?

Sở dĩ khó định nghĩa được cái chết mà chỉ có thể mô tả vì nó không có thật. Chết không phải là một thực tại, một cái gì có thật như cái nhà, cái xe hay như tình yêu, hạnh phúc, mà chỉ là mặt trái của sự sống. “Chết là hết sống”. Vì thế, sự sống mới là thực tại, mới là thật để ta quan tâm và thể hiện trong cuộc đời. Một người đang sống vui vẻ khoẻ mạnh, tự nhiên ngã lăn ra rồi nằm im bất động. Sờ vào người, thấy tim không còn đập, không còn thở, ta bảo người đó vừa chết. Chết bởi vì người này không còn sống. Vậy nếu chết không có thật thì ta sợ nó làm gì!

Nhiều người hiện nay đang cổ vũ nền “văn hoá sự chết”: họ đề cao chiến tranh, đòi cho được tự do phá thai, được chết êm dịu, được tự tử, chối bỏ tình liên đới với những người đói khổ, nghiện ngập, tật nguyền.[139]. Thật ra nó không xứng đáng gọi là văn hoá vì không có giá trị tích cực nào. Đó chỉ là những giá trị ảo trong nhiều lĩnh vực của đời sống con người.

Có người nói cái chết là do Thiên Chúa gây nên, như ta đọc trong Thánh Kinh: “Chúa làm cho sống và cũng làm cho chết”. Có người nghĩ cái chết là do một vị thần chi phối, gọi là Tử Thần, hay do một ông vua cai quản mọi loài đã chết, gọi là Diêm Vương. Thật ra, Thần chết hay Tử Thần chỉ là kiểu nói nhân cách hoá cái chết, chứ không có vị thần nào cai quản cái chết cả. Còn Diêm Vương, Âm phủ cũng chỉ là những hình ảnh tưởng tượng của con người vì Chúa ở khắp mọi nơi.

Theo Thần học Công giáo, vì được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa hằng sống, nên không người nào chết cả. Mọi người đều đang sống và sống mãi mãi, dù thân xác vật chất của họ đã tiêu tan, thân xác đó sẽ sống lại vào ngày tận thế. “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống” (Mt 22,32; Mc 12,27; Lc 20,38) “vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,38).

3. Tại sao có cái chết?

Các tôn giáo khác không giải thích được tại sao có cái chết vì không hiểu cái chết thật sự là gì. Chỉ Kitô giáo mới nói rõ cho ta về nguồn gốc của cái chết: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Bởi vì Ngài sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, và mọi loài trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu” (Kh 1,13-14).

Thiên Chúa là nguồn sự sống nên mọi loài được Chúa tạo dựng đều sống động, riêng con người và các thiên thần còn được chia sẻ sự sống vĩnh hằng. Tuy nhiên, vì con người được Chúa ban cho tinh thần tự do để đáp lại tình yêu, thì cũng được tự do chối từ tình yêu ấy. Con người đã chiều theo cơn cám dỗ của quỷ dữ để chối từ tình yêu Thiên Chúa, cắt đứt sự hiệp thông với Thiên Chúa là nguồn sống bất diệt nên con người phải chết cả xác lẫn hồn. Rồi vạn vật vì liên hệ mật thiết với con người, nên cũng phải chịu sự hư nát vì tội lỗi của con người (x. Rm 8,20-23).

Thánh Kinh nói rằng: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian. Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kh 2,23-24). Thiên Chúa không tạo nên cái chết và quỷ dữ cũng không gây nên cái chết, chính tự do của con người khi cắt đứt với nguồn sống đã tạo nên cái chết cho mình và vạn vật.

4. Cái chết có đáng sợ không?

Chúng ta được mời gọi để nhìn thẳng vào cái chết, đối mặt với nó để xem nó có đáng sợ không.

Chết thật ra chỉ là việc thay đổi tình trạng sống của con người. Chết giống như một ngưỡng cửa để ta bước vào cõi vĩnh hằng. Nó không đưa ta vào cõi tiêu diệt và cũng không làm ta mất mát bất cứ thứ gì hay xa cách một ai. Trái lại, chết làm ta gần gũi hơn, hiệu quả hơn, năng động hơn vì chúng ta không còn bị giới hạn bởi không gian, thời gian và vật chất nữa. Một người chết ở bên Mỹ, ở ngoài Bắc, ở trong Nam, tất cả đều gần nhau vì không còn bị ngăn cách bởi không gian. Một người chết cách đây chục ngàn năm, vài trăm năm như các thánh tử đạo Việt Nam hay vài chục năm như ông bà cha mẹ: tất cả đều đang có mặt bên nhau vì không còn bị thời gian chi phối, không còn bị vật chất cản ngăn.

Vì thế, trong thánh lễ, tất cả đều hiện diện, đều sống động bên Chúa: các thiên thần, các thánh nhân, các linh hồn đã khuất, cùng với ông bà, cha mẹ, bạn bè ta. Nhờ vậy, khi hiểu cái chết làm cho ta gần gũi nhau hơn, tác động lên nhau cách hiệu quả hơn thì chúng ta phải vui mừng thay vì e ngại, sợ hãi.

Nhiều người không hiểu được điều đó nên đã than khóc, lăn lộn bên xác người vừa chết như mất mát tất cả. Có người còn muốn nhào xuống huyệt để được chôn táng theo người thân, người tình. Đó là những thái độ không đúng. Có người lại sắm sửa bộ áo quan mắc tiền, tổ chức tang lễ hết sức hoành tráng, thuê cả người khóc mướn,… nhiều khi chỉ để khoe của, khoe danh. Họ không ngờ người mới chết hiện diện bên họ đang rất buồn vì thấy rõ những hành động giả dối, hoang phí, trong khi nhiều người khác đang đói khổ. Người ta thường không hiểu rằng người đã khuất có thể giúp đỡ bạn bè thân thuộc cách hiệu quả hơn khi họ sống ở trần thế, nhờ lời chuyển cầu cùng Chúa, nhưng người ta lại quên mất sự hiện diện của họ.

Nền văn hoá Kitô giáo luôn mời gọi nên tổ chức tang lễ đơn sơ, thương tiếc nhẹ nhàng, giữ vững niềm vui và hy vọng đối với người đã khuất. Hãy để cho con người chết cách tự nhiên, thay vì dùng các kỹ thuật duy trì đời sống thực vật vì lúc đó họ không còn thật sự là người. Hãy trợ giúp người bệnh nặng kết hợp với Đức Giêsu trong cơn hấp hối để cứu độ mình và thế giới thay vì dùng các biện pháp an tử [140].

5. Chết cách hào hùng thánh thiện

Chúng ta được mời gọi để vượt qua nỗi sợ hãi cái chết, vì Chúa Giêsu đã chiến thắng cái chết. Người làm cho con gái ông Giairô sống lại. Người nhắc bảo mọi người rằng: “Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! (x. Mc 5,21-43). Người đã làm cho Lazarô chết 4 ngày sống lại (x. Ga 11,1-41). Chết chỉ là một giấc ngủ để rồi chúng ta đều thức dậy, sống lại với nhau như Đức Giêsu đã vượt qua cái chết để chia sẻ cho chúng ta sự sống vĩnh hằng, kỳ diệu, phi thường của Thiên Chúa.

Khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta mới coi thường cái chết vì nó không có thật, mới dám hy sinh vì đại nghĩa. Thậm chí nhiều người chưa biết Chúa Giêsu cũng đã tự nguyện chết để bảo vệ quê hương, chết cho những giá trị cao quý, cho những công trình nghiên cứu khoa học… Nhà ái quốc Phan Bội Châu[141] đã nhắc nhở chúng ta: “Chết như Hưng Đạo hồn thành thánh, chết tựa Trưng Vương phách hoá thần”. Khi gắn bó với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể chết cách hào hùng, thánh thiện như Người đã chết tủi nhục trên thập giá vì yêu thương và muốn cứu độ ta. Người chết như thế để giúp ta hiểu được ý nghĩa của sự sống: để từng giây phút sống là ta sống cho Chúa và có chết thì cũng chết cho Người.

Lời kết

Chúng ta được mời gọi nhìn vào cuộc đời để mỗi giây phút sống ta đều mang lại kết quả tốt đẹp. Chúng ta cũng hiểu những người đã khuất đang hiện diện bên ta, đang thôi thúc ta sống trọn vẹn cho Chúa và cho nhau.

 

           

 

 

 

 

 


[1] X. Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Mục vụ “Vui mừng và Hy vọng” , số 38.

[2] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám Giáo Hội Công giáo Việt Nam Năm 2016, NXB Tôn Giáo, tr 175.

[3] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ điển Công giáo, mục từ Thiên Chúa, 2016, tr 842.

[4] X. Hoàng Trọng Miên, Việt Nam Văn học Toàn Thư I, NXB Quốc Hoa, 1959.

[5] X. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, tr 1284.

[6] X. Docat, câu số 16.

[7] X. Ga 3,18; Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, số 38.

8 1Cr 13, 4-6 ; X. Thông điệp Mater et Magistra, (1961), số 257; Docat  (2017), tr. 28.

 

[9] X. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng-Vietlex, 2013, tr.386

[10] X. Hiên Phan, Thuyết Big Bang là gì?, Nguồn Space.com, Internet, 16/8/2005; Docat, câu số 2, tr.16.

[11] X. Bs. Alice Roberts, Atlas giải phẫu cơ thể người, NXB Y Học, 2015, tr.12-15

[12] X. Bs. Alice Roberts, Atlas giải phẫu cơ thể người, NXB Y Học, 2015, tr.18-24

[13]  X. Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, câu số 2, tr.16

[14]  X. Công đồng Vaticano II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 1965, số 10; Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Docat, câu số 4, NXB Tôn Giáo, 2017, tr.18

[15]  X. Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, câu số 4, tr.17

[16]  X. Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo, NXB Tôn Giáo, 2007, số 130; Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, câu số 53, tr. 64

[17]  X. Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, câu số 6, tr.19

[18] X. CĐ. Vat. II, Hiến chế Dei Verbum, số 2-6; x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn giáo, 2015, tr.245-251

[19] X. Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, câu số 10-11, tr.21

[20] X. Uỷ ban Giáo lý Đức tin, Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, câu số 5, tr.19

[21] X. ĐTC Gioan Phaolo II, Tông huấn Giáo hội tại Á Châu, số 6, 11; Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, câu số 13, tr.22; x. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn giáo, 2015, tr.251-253

[22] X. Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, câu số 9, tr. 20-21

[23] X. Đức Giáo hoàng Phanxico, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng,24/11/2013, số 49

[24] X. Công đồng Vaticano II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 19-21

[25] X. Công đồng Vaticano II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 10

[26] X. Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo, NXB Tôn Giáo, 2007, số 62; Docat, câu số 306, tr.277

[27] X. Công đồng  Vaticano II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 22

[28] X. Nguyễn Công Trứ (1778-1858) vừa là nhà chính trị, kinh tế, quân sự, nổi bật với việc khai hoang lập ấp, quai đê lấn biển, tạo thành  một vùng đất rộng lớn ở hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình), Tiền Hải (Thái Bình) làm quan tới chức thượng thư, tổng đốc nhưng cũng nhiều lần bị cách chức làm dân, làm lính.

[29] X. Gs Phạm Đình Lựu, Sinh lý học Y khoa, tập I, NXB Y học, 2011, tr.196.

 

[30] X. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 691.

[31] X. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 703.

[32] X.  Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, 2013, tr.165.

[33] X. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 689-690, 727.

[34] X. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 730.

 

[35] Xem các mục Khí công trong các sách hay trên internet

[36] X. Blair T. Spalding, Life and Teaching of the masters of the Far East, Nguyên Phong dịch; SAnagorika Givinda, The way of the White Clouds, Nguyên Phong dịch, Barbara Ann Brennan, Hands of light, Lê Trọng Bổng dịch, NXB Văn hoá Thông tin, 1996.

 

[37] X. Xuân Diệu (1916-1985), tên thật là Ngô Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Ông nổi tiếng với các bài thơ về tình yêu. (Internet, ngày 15/3/2016, Hội thảo Khoa học “Xuân Diệu với văn hoá dân tộc”).

[38] X. Đây là câu 2658 trong Truyện Kiều. Sư Giác Duyên nói với Thuý Kiều: “Sư rằng phúc hoạ đạo trời, Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta, Tu là cỗi phúc tình là dây oan”.

[39] X. Hàn Mạc Tử (1912-1940) tên thật là Phêrô Nguyễn Trọng Trí, sáng tác được 213 bài thơ. Các câu thơ này ở trong tập Đau Thương (Thơ Điên), sáng tác năm 1937. Ông bị bệnh phong cùi, chết ở Quy Nhơn.

[40] X. Vietlex, Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, 2013, NXB Đà Nẵng, mục từ “Tình yêu”, tr.1284.

[41] X. Sđd., tr.1283.

[42] X. Sđd., tr.1256, mục từ “Thương” và tr.1237, mục từ “Thương xót”.

[43] X. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, NXB Tôn Giáo, 2015, tr.136-137.

[44] X. Thông điệp Redemptor Hominis (1979), số 10; Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, tr. 28.

[45] Xem Mục lục phân tích chủ đề, mục từ Văn hoá, cúa sách Công đồng Chung Vaticanô II, năm 2012, tr 1025; sách Giáo Lý Hội Thánh công Giáo, năm 2010, tr 1063; sách Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, năm 2007, tr 686-689; sách Docat, năm 2017, tr 112,242,76,155,243,45,102,277-278.

[46] Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, tr 1409

[47] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21

[48] X. CĐ. Vat.II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 10

[49] X. Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, 2007, số 62

[50] Sách Công đồng Chung Vaticanô II, Hội đồng Giám mục Việt Nam, 2012, số 22

[51] X. Công đồng Chung Vaticanô II, Hội đồng Giám mục Việt Nam, 2012, số 22

[52] X. Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, năm 2007, số 575-580

[53] X. Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, năm 2007, số 431

[54] X. N được nói đến trong Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 13; Tông huấn Loan báo Tin Mừng, số 20; Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Độ, số 52. Trong tông huấn Giáo hội tại Châu Á, ĐTC Gioan Phaolô II nhắc đi nhắc lại từ này nhiều lần, đặc biệt ở số 21 (4 lần) và 22 (10 lần).

[55] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21

[56] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21

[57] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 21

[58] X. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 22

[59] X. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Mục từ Việt Nam, NXB TĐBKVN, 2005, tr. 890-892.

[60] X. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, đôi khi gọi tắt là Toàn thư, là bộ quốc sử viết bằng văn ngôn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.

[61] X. Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, Quyển Thượng,  NXB Tp.HCM.

[62] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB Tôn Giáo, 2017, tr.470.

[63] X. Văn Lang thời Hùng Vương đã từng có chữ viết riêng? Internet, 16/4/2016, về nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền.

[64] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Niên giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB Tôn Giáo, tr. 178-185

[65] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN), Niên Giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB Tôn Giáo, tr 179-182.

[66] X. HĐGMVN, Niên Giám 2016 Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB Tôn Giáo, tr 182-185.

[67] X. Sách lễ Rôma, Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Kitô, Vua Vũ trụ; Cđ. Vat. II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 39.

[68] X. Nguyễn Ngọc Sơn, Kỹ thuật Chữ, NXB Giáo Dục, 1996, tr.11.

[69] X. Nguyễn Ngọc Sơn, Kỹ thuật Chữ, NXB Giáo Dục, 1996, tr.11-12.

[70] X. Uỷ ban Giáo dân, Bài 6: Cuộc hội nhập văn hoá trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tháng 10/2018, mục   2.2.

[71] X. Trung tâm Từ điển Vietlex, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Hà Nội, 2013, tr.5.

[72] X. Mã Giang Lân, Tục ngữ Ca dao Việt Nam, NXB Giáo Dục, 1999.

[73] X. Tại sao con người biết nói và có ngôn ngữ riêng, Internet, ngày 15/7/2017.

[74] X. Bs Alice Robert, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y Học, 2016, tr.305-306.

[75] X. Bản Đề cương Thượng Hội đồng Giám mục 2012: Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin, số 11.

[76] (X. Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, mục từ Kế hoạch, tr. 627)

[77] (X. Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo, NXB Tôn Giáo, 2007, tr.43-    51; Hội đồng Giám mục Việt Nam, Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, in lần 2, tr 15-31.

[78] X. Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Bạn Là Lời Cứu Độ, in lần 4, NXB Tôn Giáo, 2017, tr 28-65.

[79] X. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu cơ thể người, NXB Y học, 2015, tr.14-15.

[80] X. Từ điển chỉ có 3 từ “sống ghép”, “sống bám cố định”, “sống lâu năm” (x. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển, NXB TĐBKVN, Hà Nội, 2003, tr.798).

[81] X. Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2013, tr.1117.

[82] X. Lm. Nguyễn Ngọc Sơn, Cẩm nang Tân Phúc Âm hoá, bài Con đường sự sống, NXB Tôn Giáo, 2014, tr.264-272.

[83] X. Trịnh Công Sơn (1939-2001) sáng tác bài này năm 1965 và ca sĩ Khánh Ly trình bày đầu tiên trong Sơn Ca 7.

[84] X. Mc 3,31-35; Mt 12,46-50; Lc 8,19-21; Mc 6,3; Mt 13,53-58; Lc 4,16-30; Ga 7,2.5; Cv 1,14; 1Cr 9,5; Gl 1,19

[85] X. Bs. Alice Roberts, Atlas Giải phẫu cơ thể người, NXB Y học, 2015, tr.24.

[86] X. Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà Bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo, NXB Tôn Giáo, 2007, số 130; Uỷ ban Giáo lý Đức tin (HĐGMVN), Docat, NXB Tôn Giáo, 2017, số 47, 52, 53, 56,57.

[87] X. Vietlex, Từ điển Tiếng Việt, 2013, NXB Đà Nẵng, Mục từ Đẹp, tr.408.

[88] X. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn, Từ Điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ Điển Bách khoa Việt Nam, 2005, tập I, tr.431.

[89] X. Olivier de La Brosse, A.M Henry, P. Rouillard, Từ điển Đức tin Kitô giáo, mục từ đẹp-beau).

[90] X. Thánh Augustinô,Confession 10,27:CCL 27,251; x. Thư gửi các nghệ sĩ, ngày 4/4/1999, số 16.

[91] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thư gửi Văn nghệ sĩ, số 3.

[92] X. Ngô Tất Tố, Lều Chõng, tiểu thuyết phóng sự về đời một kẻ sĩ theo Khổng học, xuất bản ngày 10/3/1939 tại Hà Nội.

[93] X. Vũ Văn Thước, Quan niệm về cái đẹp của một số trường phái triết học- tôn giáo phương Đông, Ban Tôn giáo Tp.Đà Nẵng, Website Ban Tôn giáo Chính phủ.

[94] X. Bài giảng của thánh Augustinô số 241,2, PL 38, 1134; GLHTCG, số 32; Docat 2016, tr.240.

[95] X. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 2500.

[96] X. Giáo hoàng Phanxicô, bài giảng ngày 24/1/2014; Docat, số 57.

[97] X. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 2502.

[98] X. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 2513; Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Phụng vụ Thánh Sacrosanctum concilium, 122-127, AAS 56 (1964).

[99] X. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thư gửi các nghệ sĩ, ngày 4/4/1999, số 11.

[100] X. Tranh cãi giữa Hồng y Carafa và Michelangelo, nghệ sĩ bị buộc tội là vô đạo đức, tục tĩu khi vẽ những ảnh trần truồng trên bức hoạ Ngày Phán xét cuối cùng ở nhà nguyện Sixtine, Bách khoa Toàn thư, Wikipedia, Nhà nguyện Sixtine.

[101] X. Công đồng Vaticanô II (1965), Hiến chế Gaudium et Spes, số 14, Bản dịch của HĐGMVN, NXB Tôn Giáo, 2012, tr.233.

[102] X. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Thư gửi các nghệ sĩ, số 16; x. F. Dostoevsky, L’Idiot, phần III, chương V, Milan 1998, tr. 645.

[103] X. Lê Ngọc Trà, Thách thức của sáng tạo, NXB Thanh Niên, 2002, tr.192.

[104] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam Niên giám 2016, NXB Tôn Giáo, tr. 215.

[105] XThuyết tiến hoá của Darwin: Đã đến lúc phải chấm dứt sự lừa dối vĩ đại, bài trên You Tube, ngày 1/1/2018; bài 9 lý do chứng minh thuyết tiến hoá của Darwin sai, You Tube, ngày 14/10/2018

[106] X. A.Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y học, 2015, tr.78.

[107] X. A.Roberts, Atlas Giải phẫu Cơ thể Người, NXB Y học, 2015, tr.350-361.

[108] X. Bài Thẻ Tre 2000 năm, gọi là “Tần giản”, khai quật vào năm 2002 ở cổ thành Lý Da, Hà Nam, có niên đại 222 TCN – 208 TCN tiết lộ mật lệnh tìm tiên dược của Tần Thuỷ Hoàng, Internet, ngày 12/3/2018, Sơn Tùng.

[109]x. Hội nghị Trung ương 8, Đảng Cộng sản Việt Nam, khoá XI, ngày 4/11/2013.

[110] x. Ts Giáp Văn Dương, Học để làm gì? Tuổi Trẻ online, 12/11/2013.

[111] x. 10 bí quyết học tập hiệu quả, Dân Trí online, bài đăng ngày 24/4/2013 của Hoa Học Trò.

[112] x. Internet, ngày 19/8/2017, bài Chăm thôi chưa đủ, muốn học tốt phải tìm phương pháp học đúng, Kênh 14.vn, mục Học đường.

[113] x. Bs. Alice Robert, Atlas giải phẫu cơ thể người, NXB Y học, 2015, tr.300-307.

[114] x. Bs. Alice Robert, Atlas giải phẫu cơ thể người, NXB Y học, 2015, tr.304-306.

[115] x. Ngô Bảo Châu, bài Học như thế nào, Internet, ngày 8/4/2013.

[116] x. Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công giáo, số 130, NXB Tôn Giáo, 2007, tr. 112.

[117] x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 1831, 1845.

[118] Theo Bộ Thông tinTruyền thông, có 60 triệu người Việt Nam sử dụng internet 7 giờ/ngày trên tổng dân số 95 triệu người. Báo Thanh Niên ngày 10/12/2018, tr.7, chiếm hơn 60% Facebook 60tr.

[119] Nguyễn Ngọc Sơn, Kỹ thuật Chữ, giáo trình trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, NXB Giáo Dục, 1996.

[120] X. Hình ảnh bài Tiếng Việt lớp 1, Tập 1, tr 1-3.

[121] X. Tranh cãi về Công nghệ giáo dục Tiếng Việt lớp 1, Người trong cuộc nói gì, Báo Tuổi Trẻ, ngày 9/9/2018, tr.1,2,3; Báo Thanh Niên, ngày 9/9/2018, tr.5).

[122] X. Trung tâm Từ điển học, Từ điển Tiếng Việt, 2013, NXB Đà Nẵng-Vietlex, Hà Nội, 2013.

[123] X. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn, Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển BKVN, Hà Nội, 1995-2005.

[124] X. Vietlex, Từ điển Tiếng Việt, 2013, tr.V.

[125] X. Quy định Số: 09/1998/QĐ-VPCP, Thư viện Pháp Luật, Internet.

[126] X. Tài liệu Hội thảo, Lm. Nguyễn Ngọc Sơn; Bài tham luận Việc thống nhất cách đặt dấu giọng trên vài vần cho phù hợp với khoa ngôn ngữ học hiện đại, tr.519-527.

[127] X. Lm. Nguyễn Ngọc Sơn, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học ở Bình Định, ngày 12-13/1/2016, tr.520-523.

[128] X. Vũ Đình Liên, Bài thơ Ông Đồ, sáng tác năm 1936.

[129] X. Internet, 6/12/2018, Chữ viết thể hiện tâm người, có thể phân biệt rõ người chính kẻ tà, Bài của Tuệ Minh; Chỉ cần nhìn chữ viết, tôi có thể nói bạn là người thế nào, Bài của R.D.

[130] X. Internet, bài Ngộ nhận trong tâm lý học: chữ viết tiết lộ được những đặc điểm tính cách của con người. Tác giả của cuốn 50 ngộ nhận phổ biến của tâm lý học phổ thông. S.O. Lilienfeld, S.J. Lynn; J.Ruscio. Người dịch Nguyễn Hoàng.

[131] X. Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, NXB Ra Khơi, Sài Gòn, 1972.

[132] X. Lm. Nguyễn Ngọc Sơn, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học ở Bình Định, tr.520.

[133] X. Lm. Nguyễn Ngọc Sơn, Bài tham luận tại Hội thảo khoa học ở Bình Định, tr.523.

[134] X. Quyết định số 240/QĐ, ngày 5/3/1984 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục về Quy định về Chính tả tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt.

[135] X. Từ diển Bách khoa Việt Nam, mục từ Âm tiết, Q. 1, tr.118.

[136] X. L.R. Zinder, Giản yếu lý thuyết đại cương về chữ Việt, Mokba, 1987; Bùi Khánh Thế, Nhập môn Ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, 1995, tr.53.

[137] X. Bs. Alice Roberts, Atlas giải phẫu cơ thể người, NXB Y Học, 2015, tr.412- 413.

[138] X. Sđd.

[139] X. Docat, tr. 112. 242. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II, Thông điệp Evangelium Vitae (1995), số 12; ĐGH Beneđicto XVI, ngày 19/7/2008.

[140] X. Docat, Bảng chỉ mục đề tài An tử,  tr. 74,80-82,88-89, 291; Chết, tr. 11, 18,27-29, 80-83, 124, 165, 233, 247, 268, 273, 293.

[141] X. (1867-1940)