Sứ Điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 1-1-2019 của Đức Thánh Cha Phanxicô
Sáng ngày 18-12-2018, ĐHY Peter Turkson, Bộ trưởng Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, đã công bố sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 52 cử hành vào thứ ba 1-1-2019 với chủ đề là: ”Chính trị tốt phục vụ hoà bình”.
Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 1-1-2019
của Đức Thánh Cha Phanxicô
1. ”Bình an cho nhà này!”
Khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Chúa Giêsu nói với họ: ”Khi vào bất kỳ nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ”Bình an cho nhà này!”. Nếu tại đó có một người con của hoà bình, thì bình an của các con sẽ xuống trên người ấy, nếu không an bình ấy sẽ trở lại trên các con” (Lc 10,5-6).
Trao tặng hoà bình là điều ở trọng tâm sứ mạng các môn đệ của Chúa Kitô. Và món quà này được gửi đến tất cả những người nam nữ đang khao khát hoà bình giữa những thảm trạng và bạo lực trong lịch sử nhân loại (1). ”Nhà” mà Chúa Giêsu nói, chính là mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn, mỗi quốc gia, mỗi đại lục, với những đặc thù và lịch sử của họ; trước tiên đó là mỗi người, không phân biệt cũng chẳng kỳ thị. Đó cũng là ”căn nhà chung” của chúng ta: là trái đất trên đó Thiên Chúa đã đặt để chúng ta cư ngụ và chúng ta được kêu gọi ân cần chăm sóc trái đất ấy.
Vì vậy đây cũng là lời cầu chúc của tôi nhân dịp đầu năm mới: ”Bình an cho nhà này !”
2. Thách đố chính trị tốt
Hoà bình giống như niềm hy vọng mà văn hào Charles Péguy đã nói đến (2); nó giống như một nụ hoa mong manh đang tìm cách nở ra giữa những hòn đá bạo lực. Chúng ta biết điều này: sự tìm kiến quyền lực bằng mọi giá đưa tới những lạm dụng và bất công. Chính trị là phương thế cơ bản để kiến tạo cộng đoàn xã hội và những công trình của con người, nhưng khi những kẻ thi hành chính trị không thực thi chính trị như một công tác phục vụ tập thể con người, thì nó có thể trở thành một dụng cụ đàn áp, gạt ra ngoài lề và thậm chí nó được dùng để tàn phá.
Chúa Giêsu đã dạy: ”Nếu ai muốn trở thành người làm đầu thì hãy trở thành người rốt cùng và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9,35). Như Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhấn mạnh: ”Coi trọng chính trị ở mọi cấp độ – địa phương, miền, quốc gia và thế giới – có nghĩa là khẳng định nghĩa vụ của con người, của mỗi người, trong việc nhìn nhận thực tại cụ thể và giá trị của tự do chọn lựa được cống hiến cho mình để tìm cách cùng nhau thực hiện thiện ích của xã hội, quốc gia, nhân loại” (3)
Thực vậy, chức năng và trách nhiệm chính trị là một thách đố trường kỳ đối với tất cả những người được uỷ nhiệm phục vụ đất nước của mình, bảo vệ tất cả những người sống trong đó và làm việc để tạo ra những điều kiện cho một tương lai xứng đáng và công chính. Nếu được thực thi trong niềm tôn trọng cơ bản đối với sự sống, tự do và phẩm giá của con người, thì chính trị có thể thực sự trở thành một hình thức trổi vượt của đức bác ái.
3. Bác ái và các đức tính nhân bản để có một nền chính trị phục vụ các quyền con người và hoà bình
ĐGH Biển Đức XVI nhắc nhở rằng ”mỗi Kitô hữu được kêu gọi thực thi đức bác ái này, theo ơn gọi và khả năng ảnh hưởng trong ”pólis”. […]. Khi được đức bác ái linh hoạt thì sự dấn thân cho công ích có một giá trị cao hơn giá trị của sự dấn thân chỉ có đặc tính đời và chính trị […]. Hoạt động của con người trên trái đất, khi được đức bác ái soi sáng và nâng đỡ, thì nó góp phần vào việc kiến tạo xã hội phổ quát của Thiên Chúa mà lịch sử nhân loại đang hướng tới” (4). Đó là một chương trình trong đó tất cả các chính trị gia có thể theo đuổi, bất luận họ thuộc văn hoá hoặc tôn giáo nào, khi họ cùng nhau mong ước hoạt động cho thiện ích của gia đình nhân loại, thực thi những đức tính nhân bản làm nền tảng cho một nền chính trị tốt: công bằng, ngay chính, tôn trọng nhau, thành thực, lương thiện và trung tín.
Về vấn đề này, cũng nên nhắc đến những ”mối phúc của nhà chính trị” đã được ĐHY Việt Nam Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, qua đời năm 2002, đề ra, Người đã là một chứng nhân trung thành của Tin Mừng:
Phúc cho nhà chính trị nào coi trọng và ý thức sâu rộng về vai trò của mình.
Phúc cho nhà chính trị nào có nhân cách phản ánh sự đáng tín nhiệm.
Phúc cho nhà chính trị nào làm việc cho công ích chứ không vì tư lợi.
Phúc cho nhà chính trị nào luôn có lời nói đi đôi với việc làm.
Phúc cho nhà chính trị nào thực thi sự hợp nhất.
Phúc cho nhà chính trị nào dấn thân thực hiện một sự thay đổi quyết liệt.
Phúc cho nhà chính trị nào biết lắng nghe.
Phúc cho nhà chính trị nào không sợ hãi (5)
Mỗi khi có sự thay đổi các chức vụ dân cử, mỗi hạn kỳ bầu cử, mỗi giai đoạn trong đời sống công cộng, đó đều là dịp để trở về với nguồn mạch và những tham chiếu soi sáng công lý và luật pháp. Chúng ta chắc chắn điều này; nền chính trị tốt phục vụ hoà bình; nó tôn trọng và thăng tiến các nhân quyền cơ bản, đây cũng như những nghĩa vụ hỗ tương, để giữa các thế hệ hiện tại và tương lai có một liên hệ tín nhiệm và biết ơn.
4. Những tật xấu của chính trị
Đáng tiếc là bên cạnh các đức tính, trong chính trị cũng không thiếu những tật xấu, do sự thiếu khả năng của con người, hoặc do những biến dạng trong môi trường và trong các tổ chức. Mọi người đều thấy rõ những tật xấu trong đời sống chính trị làm cho các chế độ chính trị bị mất uy tín, cũng như cho thế giá, những quyết định và hoạt động của những người làm việc trong các chế độ ấy. Những tật xấu này, làm suy yếu lý tưởng của một nên dân chủ chân chính, chính là điều ô nhục cho đời sống công cộng và làm cho hoà bình xã hội bị lâm nguy: đó là nạn tham nhũng – dưới nhiều hình thức chiếm đoạt trái phép của công hoặc lạm dụng con người -, phủ nhận luật pháp, không tôn trọng các qui luật cộng đồng, làm giàu bất hợp pháp, biện minh quyền bính bằng võ lực hoặc viện cớ một cách độc đoán ”vì lý do quốc gia”, xu hướng bám víu ở lại mãi trong quyền bính, ghét người nước ngoài và kỳ thị chủng tộc, từ khước không chăm sóc Trái Đất, khai thác vô hạn những tài nguyên thiên nhiên để tìm lợi lộc nhất thời, coi rẻ những người bị buộc lòng phải lưu vong.
5. Nền chính trị tốt cổ vũ sự tham gia của người trẻ và lòng tín nhiệm tha nhân
Khi việc thực thi quyền bính chỉ nhắm bảo tồn lợi lộc của một số người được đặc ân, thì tương lai bị thương tổn và người trẻ có thể bị cám dỗ không còn tín nhiệm, vì họ bị kết án ở ngoài lề xã hội, không có cơ hội tham gia vào một dự án tương lai. Trái lại, khi nền chính trị được thể hiện cụ thể qua việc khích lệ những người trẻ có tài và ơn gọi đòi được thực thi, thì hoà bình lan toả trong các lương tâm và trên các khuôn mặt. Nó trở thành một sự tín nhiệm năng động, nghĩa là ‘tôi tín nhiệm bạn và tôi tin bạn”, có thể cộng tác với nhau cho công ích. Vì thế chính trị phục vụ hoà bình được diễn tả qua việc nhìn nhận những đoàn sủng và khả năng của mỗi người. ”Có gì đẹp hơn là một bàn tay được giơ ra? Bàn tay ấy được Thiên Chúa muốn để trao ban và nhận lãnh. Thiên Chúa không muốn bàn tay ấy giết người (Xc St 4,1tt) hoặc gây đau khổ, nhưng Chúa muốn nó chữa lành và giúp sinh sống. Bên cạnh con tim và trí tuệ, bàn tay cũng có thể trở thành một dụng cụ đối thoại” (6)
Mỗi người có thể đóng góp viên đá của mình cho việc xây dựng căn nhà chung. Đời sống chính trị chân chính dựa trên luật pháp và trên sự đối thoại chân thành giữa mọi người, được đổi mới nhờ xác tín rằng mỗi người nam nữ, và mỗi thế hệ đều có trong mình một lời hứa có thể làm bùng lên những nghị lực mới, những nghị lực tương quan, trí tuệ, văn hoá và tinh thần. Một niềm tín thác như thế không bao giờ là điều sống dễ dàng, vì tương quan giữa con người với nhau thật là phức tạp. Đặc biệt chúng ta sống trong một thời đại trong đó bầu không khí nghi kỵ bắt nguồn từ thái độ sợ hãi tha nhân hoặc người lạ, trong sự lo lắng mất những lợi thế của mình, và rất tiếc nó biểu lộ cả ở bình diện chính trị, qua những thái độ khép kín hoặc quốc gia chủ nghĩa, đặt lại vấn đề tình huynh đệ mà thế giới toàn cầu hoá của chúng ta đang hết sức cần đến. Ngày nay hơn bao giờ hết, các thế hệ chúng ta có thể là những sứ giả và là những chứng nhân chân thực của Thiên Chúa Cha Đấng muốn điều thiện hảo và hạnh phúc cho gia đình nhân loại.
6. Không chấp nhận chiến tranh và chiến lược sợ hãi
100 năm sau Thế Chiến Thứ I, trong lúc chúng ta tưởng niệm những người trẻ ngã gục trong các trận chiến và các thường dân bị xâu xé, ngày nay hơn trước kia, chúng ta thuộc bài học kinh khủng của các cuộc chiến huynh đệ tương tàn, nghĩa là hoà bình không bao giờ có thể bị thu hẹp vào sự quân bình các lực lượng và sợ hãi. Giữ người khác dưới sự đe doạ có nghĩa là thu hẹp họ vào trạng thái một đồ vật và phủ nhận phẩm giá của họ. Đó là lý do tại sao chúng ta tái khẳng định rằng ”sự leo thang” doạ nạt, cũng như sự làm lan tràn các võ khí không kiểm soát được là điều trái ngược với luân lý và sự tìm kiếm hoà hợp đích thực. Sự kinh hoàng gây ra cho những người dễ bị tổn thương nhất góp phần làm cho toàn bộ dân chúng phải di tản, tìm kiếm một phần đất hoà bình. Không thể biện minh những diễn văn chính trị nhằm cáo buộc những người di dân về mọi tai ương và làm cho người nghèo mất hy vọng. Trái lại, cần tái khẳng định rằng hoà bình dựa trên sự tôn trọng mỗi người, – bất luận lai lịch của họ thế nào, -, dựa trên sự tôn trọng luật pháp và công ích, tôn trọng thiên nhiên được uỷ thác cho chúng ta và sự phong phú tinh thần được các thế hệ quá khứ truyền lại.
Ngoài ra, chúng ta đặc biệt nghĩ đến các trẻ em đang trong những vùng xung đột, và tất cả những người đang dấn thân để cuộc sống và các quyền của các em được bảo vệ. Trên thế giới, 1 phần 6 các trẻ em bị tác động bởi bạo lực chiến tranh hoặc những hậu quả của chiến tranh, dù các em không bị xung vào quân ngũ hay trở thành con tin của các nhóm võ trang. Chứng tá của bao nhiêu người đang hoạt động để bảo vệ phẩm giá và tôn trọng các trẻ em là điều quí giá hơn bao giờ hết đối với tương lai nhân loại.
7. Một dự phóng lớn về hoà bình
Trong những ngày này chúng ta kỷ niệm 70 năm Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền được thông qua sau Thế Chiến thứ II. Về vấn đề này, chúng ta nhớ đến nhận xét của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII: ”Khi con người ý thức về các quyền của họ, thì trong lương tâm họ nhất thiết nảy sinh ý thức về các nghĩa vụ tương ứng: những quyền của họ, trước tiên chúng giống như những biểu hiện phẩm giá mà họ phải làm nổi bật, và tất cả những người khác có nghĩa vụ nhìn nhận và tôn trọng các quyền ấy” (7).
Thực vậy, hoà bình là kết quả của một dự phóng chính trị to lớn dựa trên trách nhiệm hỗ tương và sự lệ thuộc nhau của con người. Nhưng hoà bình cũng là một thách đố đòi phải được đón nhận ngày qua ngày. Hoà bình là một sự hoán cải tâm hồn, và thật dễ nhìn nhận ba chiều kích không thể tách rời nhau của thứ hoà bình nội tâm và cộng đoàn ấy:
– hoà bình với chính mình, từ khước thái độ khăng khăng nhất mực, giận dữ và thiếu kiên nhẫn, và như thánh Phanxicô đệ Salê đã khuyên nhủ, hãy thực thi ”một chút” dịu dàng đối với bản thân”, để cống hiến ”một chút” dịu dàng đối với người khác;
– hoà bình với tha nhân; thân nhân, bạn hữu, người ngoại quốc, người nghèo, người đau khổ..; dám gặp gỡ và lắng nghe sứ điệp họ mang trong mình;
– hoà bình với thiên nhiên, tái khám phá sự cao cả của hồng ân Thiên Chúa và phần trách nhiệm của mỗi người chúng ta, trong tư cách là người dân của thế giới, công dân và là tác nhân xây dựng tương lai.
Một nền chính trị hoà bình, biết rõ những mong manh của con người và đảm nhận chúng, luôn có thể kín múc từ tinh thần của bài ca Magnificat mà Đức Maria, Mẹ Chúa Kitô Cứu Thế và là Nữ Vương Hoà bình, hát lên nhân danh mọi người: ”Từ đời này đến đời kia, lòng thương xót Chúa đổ xuống trên những kẻ kính sợ Người. Chúa đã giơ cánh tay uy quyền mạnh mẽ, đập tan những kẻ kiêu căng, Người lật đổ những kẻ quyền hành khỏi toà cao và nâng người hèn mọn lên; […], Người nhớ lại lòng thương xót, như đã phán cùng Cha ông chúng ta, với Abraham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1,50-55).
Vatican ngày 8 tháng 12 năm 2018
Phanxicô
——
Chú thích:
1. X. Lc 2,14: ”Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người Chúa thương”
2. X. ”Le Porche du mystère de la deuxième vertu”, Paris 1986
3. Tông thư Octogesima adveniens (14-5-1971), 46
4. Thông Điệp Caritaris in veritate (29-6-2009), 7
5. X. Diễn văn nhân cuộc triển lãm – hội nghị ”Civitas” ở Padova” ”30 Giorni”,n.5, năm 2002
6. Biển Đức 16, Diễn Văn với Chính quyền Benin, Cotonou, 19-11-2011
7. Thông điệp ”Hoà bình dưới thế” (11-4-1963), 24